Chánh văn tiếng Việt:
VIII. Sông Hằng (Tạp, Ðại 2, 242)
(Biệt Tạp 16.10, Ðại 2, 487b) (S.ii,183)
1) ... Trú ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc
Lâm).2) Rồi một Bà-la-môn đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn:
-- Có bao nhiêu kiếp, bạch Thế Tôn đã đi qua, đã vượt qua?
4) -- Rất nhiều, này Bà-la-môn, là những kiếp đã đi qua, đã vượt qua. Thật không dễ gì để có thể đếm chúng được, là một vài kiếp, một vài trăm kiếp, một vài ngàn kiếp, một vài trăm ngàn kiếp.
5) -- Tôn giả Gotama có thể cho một ví dụ được không?
6) -- Có thể được, này Bà-la-môn. Ví như, này Bà-la-môn, sông Hằng này từ chỗ nguồn bắt đầu đến chỗ nó chảy nhập vào biển. Số cát nằm ở giữa chặng ấy, thật không dễ gì để có thể đếm chúng được là một số hột cát, là số trăm hột cát, là số ngàn hột cát, là số trăm ngàn hột cát.
7) Nhiều hơn vậy, này Bà-la-môn, là những kiếp đã đi qua, đã vượt qua. Thật không dễ gì có thể đếm chúng được, là một số kiếp, một trăm kiếp, là một ngàn kiếp, là một số trăm ngàn kiếp.
8) Ví sao? Vô thỉ là luân hồi này, này Bà-la-môn, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.
9) Cũng vậy, đã lâu ngày, này Bà-la-môn, các Ông chịu đựng khổ, chịu đựng thống khổ, chịu đựng tai họa, và các mộ phần ngày một lớn lên. Cho đến như vậy, này Bà-la-môn, là vừa đủ để nhàm chán, là vừa đủ để từ bỏ, là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành.
10) Ðược nghe nói vậy, Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!... Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!
Chánh văn Pāḷi:
8. Gaṅgāsuttaṃ
131. Rājagahe viharati veḷuvane. Atha kho aññataro brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā
bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā
ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho so brāhmaṇo bhagavantaṃ
etadavoca – ‘‘kīvabahukā nu kho, bho gotama, kappā abbhatītā
atikkantā’’ti? ‘‘Bahukā kho, brāhmaṇa, kappā abbhatītā atikkantā. Te na
sukarā saṅkhātuṃ – ‘ettakā kappā iti vā, ettakāni kappasatāni iti vā,
ettakāni kappasahassāni iti vā, ettakāni kappasatasahassāni iti vā’’’ti.
‘‘Sakkā pana, bho gotama,
upamaṃ kātu’’nti? ‘‘Sakkā, brāhmaṇā’’ti bhagavā avoca. ‘‘Seyyathāpi,
brāhmaṇa, yato cāyaṃ gaṅgā nadī pabhavati yattha ca mahāsamuddaṃ appeti,
yā etasmiṃ antare vālikā sā na sukarā saṅkhātuṃ – ‘ettakā vālikā iti
vā, ettakāni vālikasatāni iti vā, ettakāni vālikasahassāni iti vā,
ettakāni vālikasatasahassāni iti vā’ti. Tato bahutarā kho, brāhmaṇa, kappā abbhatītā atikkantā. Te na sukarā saṅkhātuṃ – ‘ettakā kappā iti
vā, ettakāni kappasatāni iti vā, ettakāni kappasahassāni iti vā,
ettakāni kappasatasahassāni iti vā’ti. Taṃ kissa hetu? Anamataggoyaṃ,
brāhmaṇa, saṃsāro. Pubbā koṭi na paññāyati avijjānīvaraṇānaṃ sattānaṃ
taṇhāsaṃyojanānaṃ sandhāvataṃ saṃsarataṃ. Evaṃ dīgharattaṃ kho,
brāhmaṇa, dukkhaṃ paccanubhūtaṃ tibbaṃ paccanubhūtaṃ byasanaṃ
paccanubhūtaṃ, kaṭasī vaḍḍhitā. Yāvañcidaṃ , brāhmaṇa, alameva sabbasaṅkhāresu nibbindituṃ, alaṃ virajjituṃ, alaṃ vimuccitu’’nti.
Evaṃ vutte, so brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca –
‘‘abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama…pe… upāsakaṃ maṃ
bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. Aṭṭhamaṃ.
Chú giải Pāḷi:
8-9. Gaṅgāsuttādivaṇṇanā
No comments:
Post a Comment