Tập II - Chương I(c) – Phẩm (VII) ĐẠI PHẨM THỨ BẢY -
Bài 3. Thịt Đứa Con (Tạp 15.11 Tử Nhục, Đại 2, 102b)(S.ii,97)
Bài giảng:Bài 3. Thịt Đứa Con (Tạp 15.11 Tử Nhục, Đại 2, 102b)(S.ii,97)
https://www.youtube.com/watch?v=yRd8MockdZ4
http://www.mediafire.com/listen/mhh013mumk00a3g/Vietheravada_150101_TUK2_Ch1_P7-DAIPHAM_Bai_3-THITDUACON.mp3
Chánh văn tiếng Việt:
III. Thịt Ðứa Con (Tạp 15.11 Tử Nhục, Ðại 2, 102b)
(S.ii,97)
1) ...Ở Sàvatthi.
2) ...Này các Tỷ-kheo, có bốn loại đồ ăn này đưa đến sự tồn tại,
hay sự chấp thủ tái sanh cho các loài hữu tình hay chúng sanh.
3) Thế nào là bốn? Ðoàn thực hoặc thô, hoặc tế; thứ hai là xúc
thực; thứ ba là tư niệm thực; thứ tư là thức thực.
Này các Tỷ-kheo, bốn loại đồ ăn này đưa đến sự tồn tại, hay sự
chấp thủ tái sanh cho các loài hữu tình hay các loài chúng sanh.
4) Và này các Tỷ-kheo, đoàn thực cần phải nhận xét như thế
nào?
5) Ví như, này các Tỷ-kheo, hai vợ chồng đem theo một ít lương
thực đi qua một quãng đường hoang dã, với một đứa con khả ái, thương mến.
6) Rồi này các Tỷ-kheo, trong khi hai vợ chồng ấy đang đi trên con
đường hoang vu, số lương thực ít ỏi ấy đi đến hao mòn, khánh tận. Và một vùng
hoang vu còn lại chưa được họ vượt qua.
7) Rồi này các Tỷ-kheo, hai vợ chồng người ấy suy nghĩ: "Ðồ lương
thực ít ỏi của chúng ta đã bị hao mòn, khánh tận; còn lại vùng hoang vu này chưa
được vượt qua; vậy chúng ta hãy giết đứa con một, khả ái, dễ thương này, làm
thành thịt khô và thịt ướp, ăn thịt đứa con và vượt qua vùng hoang vu còn lại
này, chớ để tất cả ba chúng ta đều bị chết hại".
8) Rồi hai vợ chồng ấy giết đứa con một, khả ái, dễ thương ấy, làm
thịt khô và thịt ướp, ăn thịt người con và vượt qua vùng hoang vu còn lại ấy. Họ
vừa ăn thịt con, vừa đập ngực, than khóc: "Ðứa con một ở đâu? Ðứa con một ở
đâu?"
9) Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Họ ăn món ăn có phải để
vui chơi? Hay họ ăn món ăn để tham đắm? Hay họ ăn món ăn để trang sức? Hay họ ăn
món ăn để béo tốt?
-- Thưa không phải vậy, bạch Thế Tôn.
10) -- Có phải họ ăn các món ăn chỉ với mục đích vượt qua vùng
hoang vu?
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
11) -- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói đoàn thực cần phải nhận
xét như vậy. Này các Tỷ-kheo, khi đoàn thực được hiểu biết, thời lòng tham đối
với năm dục trưởng dưỡng được hiểu biết. Khi lòng tham đối với năm dục trưởng
dưỡng được hiểu biết, thời không còn kiết sử, do kiết sử này, một vị Thánh đệ tử
bị trói buộc để phải sanh lại đời này.
12) Và này các Tỷ-kheo, xúc thực cần phải nhận xét như thế
nào?
13) Này các Tỷ-kheo, ví như một con bò cái bị lở da, nếu nó đứng
dựa vào tường, thời các sanh vật sống ở tường cắn nó. Nếu nó đứng dựa vào cây,
thời các sanh vật sống ở cây cắn nó. Nếu nó đứng ở trong nước, thời các sanh vật
sống ở trong nước cắn nó. Nếu nó đứng giữa hư không, thời các sanh vật giữa hư
không cắn nó. Này các Tỷ-kheo, con bò cái ấy đứng dựa vào chỗ nào, thời các sanh
vật trong các chỗ ấy cắn nó. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói xúc thực cần phải
được nhận xét.
14) Này các Tỷ-kheo, khi xúc thực được hiểu biết, thời ba cảm thọ
được hiểu biết. Khi ba cảm thọ được hiểu biết, thời Ta nói rằng vị Thánh đệ tử
không có gì cần phải làm thêm nữa.
15) Và này các Tỷ-kheo, tư niệm thực cần phải nhận xét như thế
nào?
16) Này các Tỷ-kheo, ví như một hố than hừng, sâu hơn một thân
người, chứa đầy than cháy đỏ rực, hừng cháy không có khói. Rồi một người đi đến,
muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, chán ghét khổ. Rồi hai người lực sĩ đi
đến, nắm chặt hai cánh tay người ấy, kéo người ấy đến hố than hừng ấy. Này các
Tỷ-kheo, người ấy quyết chí muốn lánh xa, tinh cần muốn lánh xa, phát nguyện
muốn lánh xa hố than hừng ấy.
17) Vì sao? Này các Tỷ-kheo, người ấy chỉ nghĩ như sau: "Nếu ta
rơi vào hố than hừng này, do nhân duyên ấy, ta đi đến chết, hay đi đến khổ gần
như chết". Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng tư niệm thực cần phải nhận
xét.
18) Này các Tỷ-kheo, khi tư niệm thực được hiểu biết, thời ba ái
được hiểu biết. Khi ba ái được hiểu biết, Ta nói rằng vị Thánh đệ tử không có gì
cần phải làm thêm nữa.
19) Và này các Tỷ-kheo, thức thực cần phải nhận xét như thế
nào?
20) Ví như, này các Tỷ-kheo, người ta bắt một người ăn trộm, một
người phạm tội, dẫn đến vua và thưa: "Thưa Ðại vương, người này là người ăn
trộm, một người phạm tội. Hãy trừng phạt người ấy nếu như Ngài muốn". Vị vua nói
như sau về người ấy: "Các Ông hãy đi và đánh người này với một trăm hèo vào buổi
sáng". Và họ đánh người ấy với một trăm hèo vào buổi sáng.
21) Rồi vị vua vào buổi trưa nói: "Này các Ông, người ấy như thế
nào?" -- "Thưa Ðại vương, người ấy vẫn còn sống". Rồi vua nói về người ấy: "Này
các Ông, các Ông hãy đi và đánh người này một trăm hèo vào buổi trưa". Và họ
đánh người ấy một trăm hèo vào buổi trưa.
22) Rồi vị vua vào buổi chiều nói: "Này các Ông, người ấy như thế
nào?" -- "Thưa Ðại vương, người ấy vẫn còn sống". Rồi vua nói về người ấy: "Này
các Ông, các Ông hãy đi và đánh người này một trăm hèo vào buổi chiều".
23) Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Người ấy trong ngày bị
đánh đến ba trăm hèo, do nhân duyên ấy có cảm thọ khổ ưu không?
-- Bạch Thế Tôn, chỉ bị đánh một hèo, do nhân duyên ấy có cảm thọ
khổ ưu, còn nói gì bị đánh đến ba trăm hèo!
24) -- Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói thức thực cần phải nhận
xét.
25) Này các Tỷ-kheo, khi thức thực đựơc hiểu rõ, thời danh sắc
được hiểu rõ. Khi danh sắc được hiểu rõ, thời Ta nói rằng vị Thánh đệ tử không
làm gì thêm nữa.
Chánh văn Pāḷi:
3. Puttamaṃsūpamasuttaṃ
63. Sāvatthiyaṃ …pe… ‘‘cattārome , bhikkhave, āhārā bhūtānaṃ vā sattānaṃ ṭhitiyā sambhavesīnaṃ vā anuggahāya .
Katame cattāro? Kabaḷīkāro āhāro oḷāriko vā sukhumo vā, phasso dutiyo,
manosañcetanā tatiyā, viññāṇaṃ catutthaṃ. Ime kho, bhikkhave, cattāro
āhārā bhūtānaṃ vā sattānaṃ ṭhitiyā sambhavesīnaṃ vā anuggahāya’’.
‘‘Kathañca, bhikkhave, kabaḷīkāro āhāro daṭṭhabbo? Seyyathāpi, bhikkhave, dve jāyampatikā [jayampatikā (sī. pī.) ṭīkā oloketabbā]
parittaṃ sambalaṃ ādāya kantāramaggaṃ paṭipajjeyyuṃ. Tesamassa
ekaputtako piyo manāpo. Atha kho tesaṃ, bhikkhave, dvinnaṃ
jāyampatikānaṃ kantāragatānaṃ yā parittā sambalamattā, sā parikkhayaṃ
pariyādānaṃ gaccheyya. Siyā ca nesaṃ kantārāvaseso anatiṇṇo. Atha kho
tesaṃ, bhikkhave, dvinnaṃ jāyampatikānaṃ evamassa – ‘amhākaṃ kho yā
parittā sambalamattā sā parikkhīṇā pariyādiṇṇā [pariyādinnā (syā. kaṃ.)]. Atthi cāyaṃ kantārāvaseso anittiṇṇo [anitthiṇṇo (syā. kaṃ.), anatiṇṇo (ka.)].
Yaṃnūna mayaṃ imaṃ ekaputtakaṃ piyaṃ manāpaṃ vadhitvā vallūrañca
soṇḍikañca karitvā puttamaṃsāni khādantā evaṃ taṃ kantārāvasesaṃ
nitthareyyāma, mā sabbeva tayo vinassimhā’ti. Atha kho te, bhikkhave,
dve jāyampatikā taṃ ekaputtakaṃ piyaṃ manāpaṃ vadhitvā vallūrañca
soṇḍikañca karitvā puttamaṃsāni khādantā evaṃ taṃ kantārāvasesaṃ
nitthareyyuṃ. Te puttamaṃsāni ceva khādeyyuṃ, ure ca paṭipiseyyuṃ –
‘kahaṃ, ekaputtaka, kahaṃ, ekaputtakā’ti.
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu te davāya vā āhāraṃ āhāreyyuṃ, madāya vā āhāraṃ āhāreyyuṃ, maṇḍanāya
vā āhāraṃ āhāreyyuṃ, vibhūsanāya vā āhāraṃ āhāreyyu’’nti? ‘‘No hetaṃ,
bhante’’. ‘‘Nanu te, bhikkhave, yāvadeva kantārassa nittharaṇatthāya
āhāraṃ āhāreyyu’’nti? ‘‘Evaṃ, bhante’’. ‘‘Evameva khvāhaṃ, bhikkhave,
kabaḷīkāro āhāro daṭṭhabbo’’ti vadāmi. Kabaḷīkāre, bhikkhave, āhāre
pariññāte pañcakāmaguṇiko rāgo pariññāto hoti. Pañcakāmaguṇike rāge
pariññāte natthi taṃ saṃyojanaṃ yena saṃyojanena saṃyutto ariyasāvako
puna imaṃ lokaṃ āgaccheyya.
‘‘Kathañca, bhikkhave, phassāhāro daṭṭhabbo? Seyyathāpi, bhikkhave, gāvī niccammā kuṭṭaṃ ce [kuḍḍañce (sī. syā. kaṃ. pī.)]
nissāya tiṭṭheyya. Ye kuṭṭanissitā pāṇā te naṃ khādeyyuṃ. Rukkhaṃ ce
nissāya tiṭṭheyya, ye rukkhanissitā pāṇā te naṃ khādeyyuṃ. Udakaṃ ce
nissāya tiṭṭheyya, ye udakanissitā pāṇā te naṃ khādeyyuṃ. Ākāsaṃ ce
nissāya tiṭṭheyya, ye ākāsanissitā pāṇā te naṃ khādeyyuṃ. Yaṃ yadeva hi
sā, bhikkhave, gāvī niccammā nissāya tiṭṭheyya, ye tannissitā [ye tannissitā tannissitā (sī. syā. kaṃ. pī.)]
pāṇā te naṃ khādeyyuṃ. Evameva khvāhaṃ, bhikkhave, ‘‘phassāhāro
daṭṭhabbo’’ti vadāmi. Phasse, bhikkhave, āhāre pariññāte tisso vedanā
pariññātā honti. Tīsu vedanāsu pariññātāsu ariyasāvakassa natthi kiñci
uttarikaraṇīyanti [uttariṃkaraṇīyanti (sī. pī.)] vadāmi.
‘‘Kathañca , bhikkhave, manosañcetanāhāro daṭṭhabbo? Seyyathāpi ,
bhikkhave, aṅgārakāsu sādhikaporisā puṇṇā aṅgārānaṃ vītaccikānaṃ
vītadhūmānaṃ. Atha puriso āgaccheyya jīvitukāmo amaritukāmo sukhakāmo
dukkhappaṭikūlo. Tamenaṃ dve balavanto purisā nānābāhāsu gahetvā taṃ
aṅgārakāsuṃ upakaḍḍheyyuṃ. Atha kho, bhikkhave, tassa purisassa
ārakāvassa cetanā ārakā patthanā ārakā paṇidhi. Taṃ
kissa hetu? Evañhi, bhikkhave, tassa purisassa hoti – ‘imaṃ cāhaṃ
aṅgārakāsuṃ papatissāmi, tatonidānaṃ maraṇaṃ vā nigacchāmi maraṇamattaṃ
vā dukkha’nti. Evameva khvāhaṃ, bhikkhave, ‘manosañcetanāhāro
daṭṭhabbo’ti vadāmi. Manosañcetanāya, bhikkhave, āhāre pariññāte tisso
taṇhā pariññātā honti. Tīsu taṇhāsu pariññātāsu ariyasāvakassa natthi
kiñci uttarikaraṇīyanti vadāmi.
‘‘Kathañca, bhikkhave, viññāṇāhāro daṭṭhabbo?
Seyyathāpi, bhikkhave, coraṃ āgucāriṃ gahetvā rañño dasseyyuṃ – ‘ayaṃ
te, deva, coro āgucārī, imassa yaṃ icchasi taṃ daṇḍaṃ paṇehī’ti. Tamenaṃ
rājā evaṃ vadeyya – ‘gacchatha, bho, imaṃ purisaṃ pubbaṇhasamayaṃ
sattisatena hanathā’ti. Tamenaṃ pubbaṇhasamayaṃ sattisatena haneyyuṃ.
Atha rājā majjhanhikasamayaṃ evaṃ vadeyya – ‘ambho, kathaṃ so puriso’ti?
‘Tatheva, deva, jīvatī’ti. Tamenaṃ rājā evaṃ vadeyya – ‘gacchatha, bho,
taṃ purisaṃ majjhanhikasamayaṃ sattisatena hanathā’ti. Tamenaṃ
majjhanhikasamayaṃ sattisatena haneyyuṃ. Atha rājā sāyanhasamayaṃ evaṃ
vadeyya – ‘ambho, kathaṃ so puriso’ti? ‘Tatheva,
deva, jīvatī’ti. Tamenaṃ rājā evaṃ vadeyya – ‘gacchatha, bho, taṃ
purisaṃ sāyanhasamayaṃ sattisatena hanathā’ti. Tamenaṃ sāyanhasamayaṃ
sattisatena haneyyuṃ. Taṃ kiṃ maññatha ,
bhikkhave, api nu so puriso divasaṃ tīhi sattisatehi haññamāno
tatonidānaṃ dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvediyethā’’ti? ‘‘Ekissāpi, bhante,
sattiyā haññamāno tatonidānaṃ dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvediyetha; ko
pana vādo tīhi sattisatehi haññamāno’’ti! ‘‘Evameva khvāhaṃ, bhikkhave,
viññāṇāhāro daṭṭhabboti vadāmi. Viññāṇe, bhikkhave, āhāre pariññāte
nāmarūpaṃ pariññātaṃ hoti, nāmarūpe pariññāte ariyasāvakassa natthi
kiñci uttarikaraṇīyanti vadāmī’’ti. Tatiyaṃ.
Chú giải Pāḷi:
3. Puttamaṃsūpamasuttavaṇṇanā
63. Tatiye cattārome, bhikkhave, āhārātiādi
vuttanayameva. Yasmā panassa aṭṭhuppattiko nikkhepo, tasmā taṃ
dassetvāvettha anupubbapadavaṇṇanaṃ karissāmi. Katarāya pana idaṃ
aṭṭhuppattiyā nikkhittanti? Lābhasakkārena. Bhagavato kira
mahālābhasakkāro uppajji, yathā taṃ cattāro asaṅkhyeyye
pūritadānapāramīsañcayassa. Sabbadisāsu hissa yamakamahāmegho
vuṭṭhahitvā mahoghaṃ viya sabbapāramiyo ‘‘ekasmiṃ attabhāve vipākaṃ
dassāmā’’ti sampiṇḍitā viya lābhasakkāramahoghaṃ nibbattayiṃsu. Tato
tato annapānayānavatthamālāgandhavilepanādihatthā khattiyabrāhmaṇādayo
āgantvā, ‘‘kahaṃ buddho, kahaṃ bhagavā, kahaṃ devadevo narāsabho
purisasīho’’ti? Bhagavantaṃ pariyesanti. Sakaṭasatehipi paccaye āharitvā
okāsaṃ alabhamānā samantā gāvutappamāṇampi sakaṭadhurena sakaṭadhuraṃ
āhacca tiṭṭhanti ceva anuppavattanti ca andhakavindabrāhmaṇādayo viya.
Sabbaṃ khandhake tesu tesu suttesu ca āgatanayena veditabbaṃ.
Yathā bhagavato, evaṃ bhikkhusaṅghassāpi. Vuttañcetaṃ –
‘‘Tena kho pana samayena
bhagavā sakkato hoti garukato mānito pūjito apacito lābhī
cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilāna-paccaya-bhesajja-parikkhārānaṃ.
Bhikkhusaṅghopi kho sakkato hoti…pe… parikkhārāna’’nti (udā. 14; saṃ.
ni. 2.70).
Tathā ‘‘yāvatā kho, cunda,
etarahi saṅgho vā gaṇo vā loke uppanno, nāhaṃ, cunda, aññaṃ ekasaṅghampi
samanupassāmi evaṃ lābhaggayasaggapattaṃ yatharivāyaṃ, cunda,
bhikkhusaṅgho’’ti (dī. ni. 3.176).
Svāyaṃ bhagavato ca saṅghassa ca uppanno
lābhasakkāro ekato hutvā dvinnaṃ mahānadīnaṃ udakaṃ viya appameyyo
ahosi. Atha satthā rahogato cintesi – ‘‘mahālābhasakkāro
atītabuddhānampi evarūpo ahosi, anāgatānampi evarūpo bhavissati .
Kiṃ nu kho bhikkhū āhārapariggāhakena satisampajaññena samannāgatā
majjhattā nicchandarāgā hutvā āhāraṃ paribhuñjituṃ sakkonti, na
sakkontī’’ti?
So addasa ekacce adhunā pabbajite kulaputte
apaccavekkhitvā āhāraṃ paribhuñjamāne. Disvānassa etadahosi – ‘‘mayā
kappasatasahassādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni pāramiyo pūrentena na
cīvarādihetu pūritā, uttamaphalassa pana arahattassatthāya pūritā. Imepi
bhikkhū mama santike pabbajantā na cīvarādihetu pabbajitā,
arahattasseva pana atthāya pabbajitā. Te idāni asārameva sāraṃ
anatthameva ca atthaṃ karontī’’ti evamassa dhammasaṃvego udapādi. Tato
cintesi – ‘‘sace pañcamaṃ pārājikaṃ paññapetuṃ sakkā abhavissa,
apaccavekkhitāhāraparibhogo pañcamaṃ pārājikaṃ katvā paññapetabbo
bhaveyya. Na pana sakkā evaṃ kātuṃ, dhuvapaṭisevanaṭṭhānañhetaṃ
sattānaṃ. Yathā pana kathite pañcamaṃ pārājikaṃ viya naṃ passissanti.
Evaṃ dhammādāsaṃ saṃvaraṃ mariyādaṃ ṭhapessāmi, yaṃ āvajjitvā āvajjitvā
anāgate bhikkhū cattāro paccaye paccavekkhitvā paribhuñjissantī’’ti.
Imāya aṭṭhuppattiyā imaṃ puttamaṃsūpamasuttantaṃ nikkhipi. Tattha cattārome, bhikkhave, āhārātiādi heṭṭhā vuttatthameva.
Cattāro pana āhāre vitthāretvā idāni tesu ādīnavaṃ dassetuṃ kathañca, bhikkhave, kabaḷīkāro āhāro daṭṭhabbotiādimāha? Tattha jāyampatikāti jāyā ceva pati ca. Parittaṃ sambalanti puṭabhattasattumodakādīnaṃ aññataraṃ appamattakaṃ pātheyyaṃ. Kantāramagganti kantārabhūtaṃ maggaṃ, kantāre vā maggaṃ. Kantāranti corakantāraṃ vāḷakantāraṃ amanussakantāraṃ nirudakakantāraṃ appabhakkhakantāranti pañcavidhaṃ. Tesu yattha corabhayaṃ atthi ,
taṃ corakantāraṃ. Yattha sīhabyagghādayo vāḷā atthi, taṃ vāḷakantāraṃ.
Yattha balavāmukhayakkhiniādīnaṃ amanussānaṃ vasena bhayaṃ atthi, taṃ
amanussakantāraṃ. Yattha pātuṃ vā nhāyituṃ vā udakaṃ natthi, taṃ
nirudakakantāraṃ. Yattha khāditabbaṃ vā bhuñjitabbaṃ vā antamaso
kandamūlādimattampi natthi, taṃ
appabhakkhakantāraṃ nāma. Yattha panetaṃ pañcavidhampi bhayaṃ atthi, taṃ
kantārameva. Taṃ panetaṃ ekāhadvīhatīhādivasena nittharitabbampi atthi,
na taṃ idha adhippetaṃ. Idha pana nirudakaṃ appabhakkhaṃ
yojanasatikakantāraṃ adhippetaṃ. Evarūpe kantāre maggaṃ. Paṭipajjeyyunti
chātakabhayena ceva rogabhayena ca rājabhayena ca upaddutā
paṭipajjeyyuṃ ‘‘etaṃ kantāraṃ nittharitvā dhammikassa rañño nirupaddave
raṭṭhe sukhaṃ vasissāmā’’ti maññamānā.
Ekaputtakoti ukkhipitvā gahito anukampitabbayutto athirasarīro ekaputtako. Vallūrañca soṇḍikañcāti ghanaghanaṭṭhānato gahetvā vallūraṃ, aṭṭhinissitasirānissitaṭṭhānāni gahetvā sūlamaṃsañcāti attho. Paṭipiseyyunti pahareyyuṃ. Kahaṃ ekaputtakāti ayaṃ tesaṃ paridevanākāro.
Ayaṃ panettha bhūtamatthaṃ katvā ādito paṭṭhāya
saṅkhepato atthavaṇṇanā – dve kira jāyampatikā puttaṃ gahetvā parittena
pātheyyena yojanasatikaṃ kantāramaggaṃ paṭipajjiṃsu. Tesaṃ
paññāsayojanāni gantvā pātheyyaṃ niṭṭhāsi, te khuppipāsāturā
viraḷacchāyāyaṃ nisīdiṃsu. Tato puriso bhariyaṃ āha – ‘‘bhadde ito
samantā paññāsayojanāni gāmo vā nigamo vā natthi. Tasmā yaṃ taṃ purisena
kātabbaṃ bahumpi kasigorakkhādikammaṃ, na dāni sakkā taṃ mayā kātuṃ,
ehi maṃ māretvā upaḍḍhamaṃsaṃ khāditvā upaḍḍhaṃ pātheyyaṃ katvā puttena
saddhiṃ kantāraṃ nittharāhī’’ti. Puna sāpi taṃ āha – ‘‘sāmi mayā dāni
yaṃ taṃ itthiyā kātabbaṃ bahumpi suttakantanādikammaṃ, taṃ kātuṃ na
sakkā, ehi maṃ māretvā upaḍḍhamaṃsaṃ khāditvā upaḍḍhaṃ pātheyyaṃ katvā
puttena saddhiṃ kantāraṃ nittharāhī’’ti. Puna sopi taṃ āha – ‘‘bhadde
mātugāmamaraṇena dvinnaṃ maraṇaṃ paññāyati . Na hi mando kumāro mātarā vinā
jīvituṃ sakkoti. Yadi pana mayaṃ jīvāma. Puna dārakaṃ labheyyāma. Handa
dāni puttakaṃ māretvā, maṃsaṃ gahetvā kantāraṃ nittharāmā’’ti. Tato
mātā puttamāha – ‘‘tāta, pitusantikaṃ gacchā’’ti, so agamāsi. Athassa
pitā, ‘‘mayā ‘puttakaṃ posessāmī’ti kasigorakkhādīhi anappakaṃ
dukkhamanubhūtaṃ, na sakkomi ahaṃ puttaṃ māretuṃ, tvaṃyeva tava puttaṃ
mārehī’’ti vatvā, ‘‘tāta mātusantikaṃ gacchā’’ti āha. So agamāsi.
Athassa mātāpi, ‘‘mayā puttaṃ patthentiyā
govatakukkuravatadevatāyācanādīhipi tāva anappakaṃ dukkhamanubhūtaṃ, ko
pana vādo kucchinā pariharantiyā? Na sakkomi ahaṃ puttaṃ māretu’’nti
vatvā ‘‘tāta, pitusantikameva gacchā’’ti āha. Evaṃ so dvinnamantarā
gacchantoyeva mato. Te taṃ disvā paridevitvā vuttanayena maṃsāni gahetvā
khādantā pakkamiṃsu.
Tesaṃ so puttamaṃsāhāro navahi kāraṇehi paṭikūlattā
neva davāya hoti, na madāya, na maṇḍanāya, na vibhūsanāya, kevalaṃ
kantāranittharaṇatthāyeva hoti. Katamehi navahi kāraṇehi paṭikūloti ce?
Sajātimaṃsatāya ñātimaṃsatāya puttamaṃsatāya piyaputtamaṃsatāya
taruṇamaṃsatāya āmakamaṃsatāya abhogamaṃsatāya aloṇatāya adhūpitatāyāti.
Evañhi te navahi kāraṇehi paṭikūlaṃ taṃ puttamaṃsaṃ khādantā na sārattā
giddhamānasā hutvā khādiṃsu, majjhattabhāveyeva pana
nicchandarāgaparibhoge ṭhitā khādiṃsu. Na aṭṭhinhārucammanissitaṭṭhānāni
apanetvā thūlathūlaṃ varamaṃsameva khādiṃsu, hatthasampattaṃ maṃsameva
pana khādiṃsu. Na yāvadatthaṃ kaṇṭhappamāṇaṃ katvā khādiṃsu, thokaṃ
thokaṃ pana ekadivasaṃ yāpanamattameva khādiṃsu. Na aññamaññaṃ
maccharāyantā khādiṃsu, vigatamaccheramalena pana parisuddheneva cetasā
khādiṃsu. Na aññaṃ kiñci migamaṃsaṃ vā moramaṃsādīnaṃ vā aññataraṃ
khādāmāti sammūḷhā khādiṃsu, piyaputtamaṃsabhāvaṃ pana jānantāva
khādiṃsu. Na ‘‘aho vata mayaṃ punapi evarūpaṃ puttamaṃsaṃ
khādeyyāmā’’ti patthanaṃ katvā khādiṃsu, patthanaṃ pana vītivattāva
hutvā khādiṃsu. Na ‘‘ettakaṃ kantāre khāditvā avasiṭṭhaṃ kantāraṃ
atikkamma loṇambilādīhi yojetvā khādissāmā’’ti sannidhiṃ akaṃsu,
kantārapariyosāne pana ‘‘pure mahājano passatī’’ti bhūmiyaṃ vā
nikhaṇiṃsu, agginā vā jhāpayiṃsu. Na ‘‘koci añño
amhe viya evarūpaṃ puttamaṃsaṃ khādituṃ na labhatī’’ti mānaṃ vā dappaṃ
vā akaṃsu, nihatamānā pana nihatadappā hutvā khādiṃsu. ‘‘Kiṃ iminā
aloṇena anambilena adhūpitena duggandhenā’’ti na hīḷetvā khādiṃsu,
hīḷanaṃ pana vītivattā hutvā khādiṃsu . Na
‘‘tuyhaṃ bhāgo mayhaṃ bhāgo tava putto mama putto’’ti aññamaññaṃ
atimaññiṃsu. Samaggā pana sammodamānā hutvā khādiṃsu. Imaṃ nesaṃ
evarūpaṃ nicchandarāgādiparibhogaṃ sampassamāno satthā bhikkhusaṅghampi
taṃ kāraṇaṃ anujānāpento taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu te davāya vā āhāraṃ āhāreyyuntiādimāha. Tattha davāya vātiādīni visuddhimagge (visuddhi. 1.18) vitthāritāneva. Kantārassāti nittiṇṇāvasesassa kantārassa.
Evameva khoti navannaṃ
pāṭikulyānaṃ vasena piyaputtamaṃsasadiso katvā daṭṭhabboti attho.
Katamesaṃ navannaṃ? Gamanapāṭikulyatādīnaṃ. Gamanapāṭikulyataṃ
paccavekkhantopi kabaḷīkārāhāraṃ pariggaṇhāti, pariyesanapāṭikulyataṃ
paccavekkhantopi,
paribhoganidhānaāsayaparipakkāparipakkasammakkhaṇanissandapāṭikulyataṃ
paccavekkhantopi, tāni panetāni gamanapāṭikulyatādīni visuddhimagge
(visuddhi. 1.294) āhārapāṭikulyatāniddese vitthāritāneva. Iti imesaṃ
navannaṃ pāṭikulyānaṃ vasena puttamaṃsūpamaṃ katvā āhāro
paribhuñjitabbo.
Yathā te jāyampatikā pāṭikulyaṃ piyaputtamaṃsaṃ
khādantā na sārattā giddhamānasā hutvā khādiṃsu, majjhattabhāveyeva
nicchandarāgaparibhoge ṭhitā khādiṃsu, evaṃ nicchandarāgaparibhogaṃ
katvā paribhuñjitabbo. Yathā ca te na aṭṭhinhārucammanissitaṃ apanetvā
thūlathūlaṃ varamaṃsameva khādiṃsu, hatthasampattameva
pana khādiṃsu, evaṃ sukkhabhattamandabyañjanādīni piṭṭhihatthena
apaṭikkhipitvā vaṭṭakena viya kukkuṭena viya ca odhiṃ adassetvā tato
tato sappimaṃsādisaṃsaṭṭhavarabhojanaṃyeva vicinitvā abhuñjantena sīhena
viya sapadānaṃ paribhuñjitabbo.
Yathā ca te na yāvadatthaṃ kaṇṭhappamāṇaṃ khādiṃsu,
thokaṃ thokaṃ pana ekekadivasaṃ yāpanamattameva khādiṃsu, evameva
āharahatthakādibrāhmaṇānaṃ aññatarena viya yāvadatthaṃ udarāvadehakaṃ
abhuñjantena catunnaṃ pañcannaṃ vā ālopānaṃ
okāsaṃ ṭhapetvāva dhammasenāpatinā viya paribhuñjitabbo. So kira
pañcacattālīsa vassāni tiṭṭhamāno ‘‘pacchābhatte
ambiluggārasamuṭṭhāpakaṃ katvā ekadivasampi āhāraṃ na āhāresi’’nti vatvā
sīhanādaṃ nadanto imaṃ gāthamāha –
Alaṃ phāsuvihārāya, pahitattassa bhikkhuno’’ti. (theragā. 983);
Yathā ca te na aññamaññaṃ maccharāyantā khādiṃsu,
vigatamalamaccherena pana parisuddheneva cetasā khādiṃsu, evameva
piṇḍapātaṃ labhitvā amaccharāyitvā ‘‘imaṃ sabbaṃ gaṇhantassa sabbaṃ
dassāmi, upaḍḍhaṃ gaṇhantassa upaḍḍhaṃ, sace gahitāvaseso bhavissati,
attanā paribhuñjissāmī’’ti sāraṇīyadhamme ṭhiteneva paribhuñjitabbo.
Yathā ca te na ‘‘aññaṃ kiñci mayaṃ migamaṃsaṃ vā moramaṃsādīnaṃ vā
aññataraṃ khādāmā’’ti sammūḷhā khādiṃsu, piyaputtamaṃsabhāvaṃ pana
jānantāva khādiṃsu, evameva piṇḍapātaṃ labhitvā ‘‘ahaṃ khādāmi
bhuñjāmī’’ti attūpaladdhisammohaṃ anuppādetvā ‘‘kabaḷīkārāhāro na jānāti
‘cātumahābhūtikakāyaṃ vaḍḍhemī’ti, kāyopi na jānāti ‘kabaḷīkārāhāro maṃ
vaḍḍhetī’’’ti, evaṃ sammohaṃ pahāya paribhuñjitabbo.
Satisampajaññavasenāpi cesa asammūḷheneva hutvā paribhuñjitabbo.
Yathā ca te na ‘‘aho vata mayaṃ punapi evarūpaṃ
puttamaṃsaṃ khādeyyāmā’’ti patthanaṃ katvā khādiṃsu, patthanaṃ pana
vītivattāva hutvā khādiṃsu, evameva paṇītabhojanaṃ
laddhā ‘aho vatāhaṃ svepi punadivasepi evarūpaṃ labheyyaṃ’, lūkhaṃ vā
pana laddhā ‘‘hiyyo viya me ajja paṇītabhojanaṃ na laddha’’nti patthanaṃ
vā anusocanaṃ vā akatvā nittaṇhena –
‘‘Atītaṃ nānusocāmi, nappajappāmināgataṃ;
Paccuppannena yāpemi, tena vaṇṇo pasīdatī’’ti. (jā. 2.22.90) –
Imaṃ ovādaṃ anussarantena ‘‘paccuppanneneva yāpessāmī’’ti paribhuñjitabbo.
Yathā ca te na ‘‘ettakaṃ kantāre khāditvā avasiṭṭhaṃ
kantāraṃ atikkamma loṇambilādīhi yojetvā khādissāmā’’ti sannidhiṃ
akaṃsu, kantārapariyosāne pana ‘‘pure mahājano passatī’’ti bhūmiyaṃ vā nikhaṇiṃsu, agginā vā jhāpayiṃsu, evameva –
Khādanīyānaṃ athopi vatthānaṃ;
Laddhā na sannidhiṃ kayirā,
Na ca parittase tāni alabhamāno’’ti. (su. ni. 930); –
Imaṃ ovādaṃ anussarantena catūsu paccayesu yaṃ yaṃ
labhati, tato tato attano yāpanamattaṃ gahetvā, sesaṃ sabrahmacārīnaṃ
vissajjetvā sannidhiṃ parivajjantena paribhuñjitabbo. Yathā ca te na
‘‘koci añño amhe viya evarūpaṃ puttamaṃsaṃ khādituṃ na labhatī’’ti mānaṃ
vā dappaṃ vā akaṃsu, nihatamānā pana nihatadappā hutvā khādiṃsu,
evameva paṇītabhojanaṃ labhitvā ‘‘ahamasmi lābhī
cīvarapiṇḍapātādīna’’nti na māno vā dappo vā kātabbo. ‘‘Nāyaṃ pabbajjā
cīvarādihetu, arahattahetu panāyaṃ pabbajjā’’ti paccavekkhitvā
nihatamānadappeneva paribhuñjitabbo.
Yathā ca te ‘‘kiṃ iminā aloṇena anambilena adhūpitena duggandhenā’’ti
hīḷetvā na khādiṃsu, hīḷanaṃ pana vītivattā hutvā khādiṃsu, evameva
piṇḍapātaṃ labhitvā ‘‘kiṃ iminā assagoṇabhattasadisena lūkhena nirasena,
suvānadoṇiyaṃ taṃ pakkhipathā’’ti evaṃ piṇḍapātaṃ vā ‘‘ko imaṃ
bhuñjissati, kākasunakhādīnaṃ dehī’’ti evaṃ dāyakaṃ vā ahīḷentena –
‘‘Sa pattapāṇi vicaranto, amūgo mūgasammato;
Appaṃ dānaṃ na hīḷeyya, dātāraṃ nāvajāniyā’’ti. (su. ni. 718); –
Imaṃ ovādaṃ anussarantena paribhuñjitabbo. Yathā
ca te na ‘‘tuyhaṃ bhāgo, mayhaṃ bhāgo, tava putto mama putto’’ti
aññamaññaṃ atimaññiṃsu, samaggā pana, sammodamānā hutvā khādiṃsu,
evamevaṃ piṇḍapātaṃ labhitvā yathā ekacco ‘‘ko tumhādisānaṃ dassati
nikkāraṇā ummāresu pakkhalantānaṃ āhiṇḍantānaṃ vijātamātāpi vo dātabbaṃ
na maññati, mayaṃ pana gatagataṭṭhāne paṇītāni cīvarādīni labhāmā’’ti sīlavante sabrahmacārī atimaññati, yaṃ sandhāya vuttaṃ –
‘‘So tena lābhasakkārasilokena
abhibhūto pariyādiṇṇacitto aññe pesale bhikkhū atimaññati. Tañhi tassa,
bhikkhave, moghapurisassa hoti dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā’’ti (saṃ.
ni. 2.161).
Evaṃ kañci anatimaññitvā sabbehi sabrahmacārīhi saddhiṃ samaggena sammodamānena hutvā paribhuñjitabbaṃ.
Pariññāteti ñātapariññā
tīraṇapariññā pahānapariññāti imāhi tīhi pariññāhi pariññāte. Kathaṃ?
Idha bhikkhu ‘‘kabaḷīkārāhāro nāma ayaṃ savatthukavasena
ojaṭṭhamakarūpaṃ hoti, ojaṭṭhamakarūpaṃ kattha paṭihaññati? Jivhāpasāde,
jivhāpasādo kinnissito? Catumahābhūtanissito. Iti ojaṭṭhamakaṃ
jivhāpasādo tassa paccayāni mahābhūtānīti ime dhammā rūpakkhandho nāma,
taṃ pariggaṇhato uppannā phassapañcamakā dhammā cattāro arūpakkhandhā.
Iti sabbepime pañcakkhandhā saṅkhepato nāmarūpamattaṃ hotī’’ti pajānāti.
So te dhamme sarasalakkhaṇato vavatthapetvā
tesaṃ paccayaṃ pariyesanto anulomapaṭilomaṃ paṭiccasamuppādaṃ passati.
Ettāvatānena kabaḷīkārāhāramukhena sappaccayassa nāmarūpassa yāthāvato
diṭṭhattā kabaḷīkārāhāro ñātapariññāya pariññāto hoti. So tadeva
sappaccayaṃ nāmarūpaṃ aniccaṃ dukkhaṃ anattāti tīṇi lakkhaṇāni āropetvā
sattannaṃ anupassanānaṃ vasena sammasati. Ettāvatānena so
tilakkhaṇapaṭivedhasammasanañāṇasaṅkhātāya tīraṇapariññāya pariññāto
hoti. Tasmiṃyeva nāmarūpe chandarāgāvakaḍḍhanena anāgāmimaggena
parijānatā pahānapariññāya pariññāto hotīti.
Pañcakāmaguṇikoti pañcakāmaguṇasambhavo rāgo pariññāto hoti. Ettha pana tisso pariññā ekapariññā sabbapariññā mūlapariññāti. Katamā ekapariññā?
Yo bhikkhu jivhādvāre ekarasataṇhaṃ parijānāti, tena pañcakāmaguṇiko
rāgo pariññātova hotīti. Kasmā? Tassāyeva tattha uppajjanato. Sāyeva hi
taṇhā cakkhudvāre uppannā rūparāgo nāma hoti,
sotadvārādīsu uppannā saddarāgādayo. Iti yathā ekasseva corassa
pañcamagge hanato ekasmiṃ magge gahetvā sīse chinne pañcapi maggā khemā
honti, evaṃ jivhādvāre rasataṇhāya pariññātāya pañcakāmaguṇiko rāgo
pariññāto hotīti ayaṃ ekapariññā nāma.
Katamā sabbapariññā?
Patte pakkhittapiṇḍapātasmiñhi ekasmiṃyeva pañcakāmaguṇikarāgo
labbhati. Kathaṃ? Parisuddhaṃ tāvassa vaṇṇaṃ olokayato rūparāgo hoti,
uṇhe sappimhi tattha āsiñcante paṭapaṭāti saddo uṭṭhahati, tathārūpaṃ
khādanīyaṃ vā khādantassa murumurūti saddo uppajjati, taṃ assādayato
saddarāgo. Jīrakādivasagandhaṃ assādentassa gandharāgo, sādurasavasena
rasarāgo. Mudubhojanaṃ phassavantanti assādayato phoṭṭhabbarāgo. Iti
imasmiṃ āhāre satisampajaññena pariggahetvā nicchandarāgaparibhogena
paribhutte sabbopi so pariññāto hotīti ayaṃ sabbapariññā nāma.
Katamā mūlapariññā? Pañcakāmaguṇikarāgassa hi kabaḷīkārāhāro mūlaṃ. Kasmā? Tasmiṃ sati tassuppattito .
Brāhmaṇatissabhaye kira dvādasa vassāni jāyampatikānaṃ
upanijjhānacittaṃ nāma nāhosi. Kasmā? Āhāramandatāya. Bhaye pana
vūpasante yojanasatiko tambapaṇṇidīpo dārakānaṃ jātamaṅgalehi ekamaṅgalo
ahosi. Iti mūlabhūte āhāre pariññāte pañcakāmaguṇiko rāgo pariññātova
hotīti ayaṃ mūlapariññā nāma.
Natthi taṃ saṃyojananti
tena rāgena saddhiṃ pahānekaṭṭhatāya pahīnattā natthi. Evamayaṃ desanā
yāva anāgāmimaggā kathitā. ‘‘Ettakena pana mā vosānaṃ āpajjiṃsū’’ti
etesaṃyeva rūpādīnaṃ vasena pañcasu khandhesu vipassanaṃ vaḍḍhetvā yāva
arahattā kathetuṃ vaṭṭatīti. Paṭhamāhāro (niṭṭhito).
Dutiye niccammāti
khurato paṭṭhāya yāva siṅgamūlā sakalasarīrato uddālitacammā
kiṃsukarāsivaṇṇā. Kasmā pana aññaṃ hatthiassagoṇādiupamaṃ agahetvā
niccammagāvūpamā gahitāti? Titikkhituṃ asamatthabhāvadīpanatthaṃ.
Mātugāmo hi uppannaṃ dukkhavedanaṃ titikkhituṃ adhivāsetuṃ na sakkoti,
evameva phassāhāro abalo dubbaloti dassanatthaṃ sadisameva upamaṃ āhari.
Kuṭṭanti silākuṭṭādīnaṃ aññataraṃ. Kuṭṭanissitā pāṇā nāma uṇṇanābhisarabūmūsikādayo. Rukkhanissitāti uccāliṅgapāṇakādayo. Udakanissitāti macchasuṃsumārādayo. Ākāsanissitāti ḍaṃsamakasakākakulalādayo. Khādeyyunti luñcitvā khādeyyuṃ. Sā tasmiṃ tasmiṃ ṭhāne taṃ taṃṭhānasannissayamūlikaṃ pāṇakhādanabhayaṃ sampassamānā neva attano
sakkārasammānaṃ, na piṭṭhiparikammasarīrasambāhanauṇhodakāni icchati,
evameva bhikkhu phassāhāramūlakaṃ kilesapāṇakakhādanabhayaṃ sampassamāno
tebhūmakaphassena anatthiko hoti.
Phasse, bhikkhave, āhāre pariññāteti tīhi pariññāhi pariññāte. Idhāpi tisso pariññā. Tattha ‘‘phasso saṅkhārakkhandho ,
taṃsampayuttā vedanā vedanākkhandho, saññā saññākkhandho, cittaṃ
viññāṇakkhandho, tesaṃ vatthārammaṇāni rūpakkhandho’’ti evaṃ
sappaccayassa nāmarūpassa yāthāvato dassanaṃ ñātapariññā. Tattheva
tilakkhaṇaṃ āropetvā sattannaṃ anupassanānaṃ vasena aniccādito tulanaṃ
tīraṇapariññā. Tasmiṃyeva pana nāmarūpe chandarāganikkaḍḍhano
arahattamaggo pahānapariññā. Tisso vedanāti
evaṃ phassāhāre tīhi pariññāhi pariññāte tisso vedanā pariññātāva honti
tammūlakattā taṃsampayuttattā ca. Iti phassāhāravasena desanā yāva
arahattā kathitā. Dutiyāhāro.
Tatiye aṅgārakāsūti aṅgārānaṃ kāsu. Kāsūti rāsipi vuccati āvāṭopi.
Narā rudantā paridaḍḍhagattā;
Bhayañhi maṃ vindati sūta disvā,
Pucchāmi taṃ mātali devasārathī’’ti. (jā. 2.22.462); –
Ettha rāsi ‘‘kāsū’’ti vutto.
‘‘Kinnu santaramānova, kāsuṃ khanasi sārathī’’ti? (Jā. 2.22.3). –
Ettha āvāṭo. Idhāpi ayameva adhippeto. Sādhikaporisāti atirekaporisā pañcaratanappamāṇā. Vītaccikānaṃ vītadhūmānanti
etenassa mahāpariḷāhataṃ dasseti. Jālāya vā hi dhūme vā sati vāto
samuṭṭhāti, pariḷāho mahā na hoti, tadabhāve vātābhāvato pariḷāho mahā
hoti. Ārakāvassāti dūreyeva bhaveyya.
Evamevakhoti
ettha idaṃ opammasaṃsandanaṃ – aṅgārakāsu viya hi tebhūmakavaṭṭaṃ
daṭṭhabbaṃ. Jīvitukāmo puriso viya vaṭṭanissito bālaputhujjano. Dve
balavanto purisā viya kusalākusalakammaṃ. Tesaṃ taṃ purisaṃ nānābāhāsu
gahetvā aṅgārakāsuṃ upakaḍḍhanakālo viya
puthujjanassa kammāyūhanakālo. Kammañhi āyūhiyamānameva paṭisandhiṃ
ākaḍḍhati nāma. Aṅgārakāsunidānaṃ dukkhaṃ viya kammanidānaṃ vaṭṭadukkhaṃ
veditabbaṃ.
Pariññāteti tīhi pariññāhi pariññāte. Pariññāyojanā panettha phasse vuttanayeneva veditabbā. Tisso taṇhāti
kāmataṇhā bhavataṇhā vibhavataṇhāti imā pariññātā honti. Kasmā?
Taṇhāmūlakattā manosañcetanāya. Na hi hetumhi appahīne phalaṃ pahīyati.
Iti manosañcetanāhāravasenapi yāva arahattā desanā kathitā. Tatiyāhāro.
Catutthe āgucārinti pāpacāriṃ dosakārakaṃ. Kathaṃ so purisoti so puriso kathaṃbhūto, kiṃ yāpeti, na yāpetīti pucchati? Tatheva deva jīvatīti yathā pubbe, idānipi tatheva jīvati.
Evamevakhoti
idhāpi idaṃ opammasaṃsandanaṃ – rājā viya hi kammaṃ daṭṭhabbaṃ, āgucārī
puriso viya vaṭṭasannissito bālaputhujjano, tīṇi sattisatāni viya
paṭisandhiviññāṇaṃ, āgucāriṃ purisaṃ ‘‘tīhi sattisatehi hanathā’’ti
raññā āṇattakālo viya kammaraññā vaṭṭasannissitaputhujjanaṃ gahetvā
paṭisandhiyaṃ pakkhipanakālo. Tattha kiñcāpi tīṇi sattisatāni viya
paṭisandhiviññāṇaṃ, sattīsu pana dukkhaṃ natthi, sattīhi
pahaṭavaṇamūlakaṃ dukkhaṃ, evameva paṭisandhiyampi dukkhaṃ natthi,
dinnāya pana paṭisandhiyā pavatte vipākadukkhaṃ sattipahaṭavaṇamūlakaṃ
dukkhaṃ viya hoti.
Pariññāteti tīheva pariññāhi pariññāte. Idhāpi pariññāyojanā phassāhāre vuttanayeneva veditabbā. Nāmarūpanti
viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ. Viññāṇasmiñhi pariññāte taṃ pariññātameva
hoti tammūlakattā sahuppannattā ca. Iti viññāṇāhāravasenapi yāva
arahattā desanā kathitāti. Catutthāhāro. Tatiyaṃ.
No comments:
Post a Comment