Tập II - Chương I(b) – Phẩm (IV) Kalāra-VỊ SÁT ĐẾ LỴ - Bài 2. Kalāra (S.ii,50)
Chánh văn tiếng Việt:
Chánh văn Pāḷi:
Chú giải Pāḷi:
II. Kalàra (S.ii,50)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
I
2) Rồi Tỷ-kheo Kalàra Khattiya (dòng Sát-đế-lỵ) đi đến Tôn giả
Sàriputta; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời chào đón hỏi
thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một
bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo Kalàra Khattiya nói với Tôn giả
Sàriputta:
-- Này Hiền giả Sàriputta, Tỷ-kheo Moliyaphagguna đã từ bỏ học tập
và hoàn tục.
-- Vậy vị Tôn giả ấy, không tìm được sự an ủi trong Pháp và Luật
này?
4) -- Vậy Tôn giả Sàriputta đã đạt được sự an ủi trong Pháp và
Luật này?
-- Này Hiền giả, tôi không có nghi ngờ gì!
5) -- Này Hiền giả, còn đối với tương lai?
-- Tôi không có băn khoăn, này Hiền giả.
6) Rồi Tỷ-kheo Kalàra Khattiya từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
7) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo Kalàra Khattiya bạch Thế Tôn:
-- Con được biết, bạch Thế Tôn, Tôn giả Sàriputta tuyên bố được
chánh trí như sau: "Sanh đã tận; Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm;
không còn trở lại trạng thái này nữa".
8) Rồi Thế Tôn gọi một Tỷ-kheo:
-- Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta, gọi Sàriputta: "Hiền giả
Sàriputta, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả".
9) -- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến Tôn giả Sàriputta; sau khi
đến, nói với Tôn giả Sàriputta: "Bậc Ðạo Sư cho gọi Hiền giả".
10) -- Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Sàriputta vâng đáp Tỷ-kheo ấy, đi đến Thế Tôn; sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
II
11) Thế Tôn nói với Tôn giả Sàriputta đang ngồi một bên:
-- Này Sàriputta, có đúng sự thật chăng là Ông có tuyên bố đã
chứng được chánh trí: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa"?
-- Bạch Thế Tôn, không phải với những câu ấy, với những chữ ấy, ý
nghĩa ấy được con nói đến như vậy.
12) -- Vậy với pháp môn nào, này Sàriputta, Thiện nam tử nói đến
sự chứng đắc trí, lời tuyên bố cần phải được xem đúng như lời tuyên bố.
13) -- Bạch Thế Tôn, chính con đã nói như sau: "Bạch Thế Tôn,
không phải với những câu ấy, với những chữ ấy, ý nghĩa ấy được con nói đến như
vậy".
14) -- Nếu họ có hỏi Ông, này Sàriputta: "Ông biết như thế nào,
này Sàriputta, Ông thấy như thế nào mà Ông tuyên bố trí đã được chứng đắc: 'Ta
biết sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lui
lại trạng thái này nữa' ?" Ðược hỏi vậy, này Sàriputta, Ông trả lời như thế
nào?
15) -- Nếu họ có hỏi con, bạch Thế Tôn: "Hiền giả biết như thế
nào, này Hiền giả Sàriputta, Hiền giả thấy như thế nào mà tuyên bố trí đã được
chứng đắc: 'Ta đã biết, sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã
làm, không còn trở lại trạng thái này nữa'?" Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả
lời như sau:
16) "Vì rằng này Hiền giả, trong (danh từ) tận diệt, ta hiểu được
là sự tận diệt của nhân, chính do nhân ấy sanh sanh khởi. Sau khi hiểu được
nghĩa tận diệt trong (danh từ) tận diệt, ta mới biết: 'Sanh đã tận, Phạm hạnh đã
thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa.' "
Ðược hỏi như vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như vậy.
17) -- Này Sàriputta, nếu Ông được hỏi: "Này Hiền giả Sàriputta,
sanh lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì làm hiện hữu?"
Ðược hỏi như vậy, này Sàriputta, Ông trả lời như thế nào?
18) -- Bạch Thế Tôn, nếu con được hỏi: "Này Hiền giả Sàriputta,
sanh lấy gì làm nhân... (như trên)... lấy gì làm hiện hữu?" Ðược hỏi vậy, bạch
Thế Tôn, con trả lời như sau: "Sanh lấy hữu làm nhân, lấy hữu tập khởi, lấy hữu
tác sanh, lấy hữu làm hiện hữu". Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như
vậy.
19) -- Này Sàriputta, nếu Ông được hỏi: "Này Hiền giả Sàriputta,
hữu lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì làm hiện hữu?"
Ðược hỏi vậy này Sàriputta, Ông trả lời như thế nào?
20) -- Bạch Thế Tôn, nếu con được hỏi: "Này Hiền giả Sàriputta,
hữu lấy gì làm nhân... lấy gì làm hiện hữu?" Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả
lời như sau: "Hữu lấy thủ làm nhân, lấy thủ tập khởi, lấy thủ tác sanh, lấy thủ
làm hiện hữu". Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như vậy.
21) -- Này Sàriputta, nếu Ông được hỏi: "Này Hiền giả Sàriputta,
thủ lấy gì làm nhân... (như trên)..".
22-23) -- Và này Sàriputta, nếu Ông được hỏi: "Này Hiền giả
Sàriputta, ái lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì làm hiện
hữu?" Ðược hỏi vậy, này Sàriputta, Ông trả lời như thế nào?
24) -- Bạch Thế Tôn, nếu con được hỏi: "Này Hiền giả Sàriputta, ái
lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì hiện hữu?". Ðược hỏi
vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời như sau: "Này Hiền giả, ái lấy thọ làm nhân,
lấy thọ tập khởi, lấy thọ tác sanh, lấy thọ làm hiện hữu". Ðược hỏi vậy, bạch
Thế Tôn, con trả lời như vậy.
25) -- Này Sàriputta, nếu Ông được hỏi: "Làm sao, này Hiền giả
Sàriputta, Hiền giả biết như thế nào, Hiền giả thấy như thế nào, cảm thọ diệu
lạc ấy không tồn tại?" Ðược hỏi vậy, này Sàriputta, Ông trả lời như thế nào?
26) -- Bạch Thế Tôn, nếu con được hỏi: "Này Hiền giả Sàriputta,
Hiền giả biết như thế nào, Hiền giả thấy như thế nào, cảm thọ diệu lạc không tồn
tại?" Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như sau:
27) "Này Hiền giả, có ba cảm thọ này. Thế nào là ba? Lạc thọ, khổ
thọ, phi khổ phi lạc thọ. Này Hiền giả, ba cảm thọ này vô thường, khi biết được
cái gì vô thường là khổ, thời cảm thọ diệu lạc ấy không tồn tại".
Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như vậy.
28) -- Lành thay, lành thay, này Sàriputta! Pháp môn (phương tiện)
này, này Sàriputta, có thể trả lời tóm tắt như sau: Cái gì được cảm thọ, cái ấy
nằm trong đau khổ.
29) -- Này Sàriputta, nếu Ông được hỏi: "Hiền giả được giải thoát
như thế nào, này Hiền giả Sàriputta, mà Hiền giả tuyên bố trí đã được chứng đắc:
'Ta biết: Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn
trở lui trạng thái này nữa'?" Ðược hỏi vậy, này Sàriputta, Ông trả lời như thế
nào?
30) -- Bạch Thế Tôn, nếu con được hỏi: "Hiền giả được giải thoát
như thế nào, này Hiền giả Sàriputta, mà Hiền giả tuyên bố trí đã được chứng đắc:
'Ta biết: Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn
trở lui trạng thái này nữa'?" Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như
sau:
31) "Do tự giải thoát, chư Hiền giả, do đoạn diệt tất cả chấp thủ,
ta sống an trú chánh niệm như vậy. Nhờ sống an trú chánh niệm như vậy, các lậu
hoặc không còn tiếp tục rỉ chảy, và ta không chấp nhận tự ngã".
Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như vậy.
32) -- Lành thay, lành thay, này Sàriputta! Pháp môn (phương tiện)
này, này Sàriputta, có thể trả lời tóm tắt như sau: Những cái gì được vị Sa-môn
gọi là lậu hoặc, ta không còn nghi ngờ gì nữa, chúng đã được ta diệt tận. Ta
không còn phân vân gì nữa.
33) Nói vậy xong, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh
xá.
III
34) Rồi Tôn giả Sàriputta, sau khi Thế Tôn đi chẳng lao lâu, liền
bảo các Tỷ-kheo:
35) -- Này chư Hiền giả, Thế Tôn hỏi ta câu hỏi thứ nhất mà ta
chưa được biết trước, lúc ấy trí ta còn chậm chạp. Nhưng này chư Hiền giả, khi
Thế Tôn tùy hỷ trả lời câu hỏi thứ nhất của ta, ta suy nghĩ như sau:
36) "Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa trọn ngày với những văn cú sai
khác, với những pháp môn (phương tiện) sai khác, thời ta có thể trả lời Thế Tôn
về ý nghĩa ấy cho đến trọn ngày với những văn cú sai khác, với những pháp môn
sai khác.
37) Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa trọn đêm với những văn cú sai khác,
với những pháp môn (phương tiện) sai khác, thời ta có thể trả lời Thế Tôn về ý
nghĩa ấy cho đến trọn đêm với những văn cú sai khác, với những pháp môn (phương
tiện) sai khác.
38) Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa trọn đêm và trọn ngày với những văn
cú sai khác, với những pháp môn (phương tiện) sai khác, thời ta có thể trả lời
Thế Tôn về ý nghĩa ấy cho đến trọn đêm và trọn ngày với những văn cú sai khác,
với những pháp môn (phương tiện) sai khác.
39) Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa này trọn hai đêm hai ngày, ta có
thể trả lời Thế Tôn về ý nghĩa ấy trọn hai đêm hai ngày.
40) Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa này trọn ba đêm ba ngày, ta có thể
trả lời Thế Tôn về ý nghĩa ấy trọn ba đêm ba ngày.
41) Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa này trọn bốn đêm bốn ngày, ta có
thể trả lời Thế Tôn về ý nghĩa ấy trọn bốn đêm bốn ngày.
42) Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa này trọn năm đêm năm ngày, ta có
thể trả lời Thế Tôn về ý nghĩa này trọn năm đêm năm ngày.
43) Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa này trọn sáu đêm sáu ngày, ta có
thể trả lời Thế Tôn về ý nghĩa này trọn sáu đêm sáu ngày.
44) Nếu Thế Tôn hỏi ta ý nghĩa này trọn bảy đêm bảy ngày với những
văn cú sai khác, với những pháp môn (phương tiện) sai khác, ta có thể trả lời
Thế Tôn về ý nghĩa này trọn bảy đêm bảy ngày với những văn cú sai khác, với
những pháp môn (phương tiện) sai khác".
IV
45) Rồi Tỷ-kheo Kalàra Khattiya từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Thế
Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
46) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo Kalàra Khattiya bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Sàriputta đã rống lên tiếng rống con sư
tử như sau: Này chư Hiền giả, Thế Tôn hỏi ta câu hỏi thứ nhất, mà ta chưa được
biết trước, lúc ấy trí ta còn chậm chạp. Nhưng này chư Hiền giả, khi Thế Tôn tùy
hỷ trả lời câu hỏi thứ nhất của ta, ta suy nghĩ như sau: "Nếu Thế Tôn hỏi ta về
ý nghĩa này trọn ngày với những văn cú sai khác, với những phương tiện sai khác,
ta có thể trả lời Thế Tôn về ý nghĩa ấy cho đến trọn ngày với những văn cú sai
khác, với những pháp môn sai khác. Nếu Thế Tôn hỏi ta về ý nghĩa này cho đến
trọn đêm... cho đến trọn đêm và trọn ngày... cho đến trọn ba... trọn bốn..., cho
đến trọn năm... trọn sáu... trọn bảy đêm bảy ngày với những văn cú sai khác, với
những phương tiện sai khác".
47) -- Này các Tỷ-kheo, pháp giới ấy (Dhammadhàtu) được Sàriputta
khéo thành đạt. Do khéo thành đạt pháp giới ấy, nếu Ta hỏi Sàriputta về ý nghĩa
này trọn ngày với những văn cú sai khác, với những phương tiện sai khác, thời
Sàriputta có thể trả lời Ta về ý nghĩa này cho đến trọn ngày, với những văn cú
sai khác, với những phương tiện sai khác. Nếu Ta hỏi Sàriputta về ý nghĩa này
cho đến trọn đêm với những văn cú sai khác, với những phương tiện sai khác, thời
Saụriputta có thể trả lời Ta về ý nghĩa này cho đến trọn đêm với những văn cú
sai khác, với những phương tiện sai khác. Nếu Ta hỏi Sàriputta về ý nghĩa này
cho đến trọn đêm và trọn ngày, Sàriputta có thể trả lời Ta về ý nghĩa này cho
đến trọn đêm và trọn ngày. Nếu Ta hỏi Sàriputta về ý nghĩa này cho đến trọn cả
hai đêm và hai ngày, Sàriputta có thể trả lời Ta về ý nghĩa này cho đến trọn cả
hai đêm hai ngày. Nếu Ta hỏi Sàriputta về ý nghĩa này cho đến trọn cả ba đêm ba
ngày, Sàriputta có thể trả lời Ta về ý nghĩa này cho đến cả ba đêm ba ngày. Nếu
Ta hỏi Sàriputta về ý nghĩa này cho đến trọn bốn đêm bốn ngày, Sàriputta có thể
trả lời Ta về ý nghĩa này cho đến bốn đêm bốn ngày. Nếu Ta hỏi Sàriputta về ý
nghĩa này cho đến trọn năm đêm năm ngày, Sàriputta có thể trả lời Ta về ý nghĩa
này cho đến trọn năm đêm năm ngày. Nếu Ta hỏi Sàriputta về ý nghĩa này cho đến
trọn sáu đêm sáu ngày, Sàriputta có thể trả lời Ta về ý nghĩa này cho đến trọn
sáu đêm sáu ngày. Nếu Ta hỏi Sàriputta về ý nghĩa này trọn bảy đêm bảy ngày với
những văn cú sai khác, với những pháp môn sai khác, Sàriputta có thể trả lời cho
Ta về ý nghĩa ấy cho đến trọn bảy đêm bảy ngày với những văn cú sai khác, với
những pháp môn sai khác.
2. Kaḷārasuttaṃ
32. Sāvatthiyaṃ
viharati. Atha kho kaḷārakhattiyo bhikkhu yenāyasmā sāriputto
tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā sāriputtena saddhiṃ sammodi.
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ
nisinno kho kaḷārakhattiyo bhikkhu āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca –
‘‘moḷiyaphagguno, āvuso sāriputta, bhikkhu sikkhaṃ paccakkhāya
hīnāyāvattoti. Na hi nūna so āyasmā imasmiṃ dhammavinaye
assāsamalatthāti. Tena hāyasmā sāriputto imasmiṃ dhammavinaye assāsaṃ
patto’’ti?
‘‘Na khvāhaṃ, āvuso, kaṅkhāmī’’ti. ‘‘Āyatiṃ, panāvuso’’ti?
‘‘Na khvāhaṃ, āvuso, vicikicchāmī’’ti.
Atha kho kaḷārakhattiyo bhikkhu uṭṭhāyāsanā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi . Ekamantaṃ nisinno kho kaḷārakhattiyo bhikkhu bhagavantaṃ
etadavoca – ‘‘āyasmatā, bhante, sāriputtena aññā byākatā – ‘khīṇā jāti,
vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti
pajānāmī’’ti.
Atha kho bhagavā aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi – ‘‘ehi
tvaṃ, bhikkhu, mama vacanena sāriputtaṃ āmantehi – ‘satthā taṃ, āvuso
sāriputta, āmantetī’’’ti . ‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho
so bhikkhu bhagavato paṭissutvā yenāyasmā sāriputto tenupasaṅkami;
upasaṅkamitvā āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca – ‘‘satthā taṃ, āvuso
sāriputta, āmantetī’’ti. ‘‘Evaṃ, āvuso’’ti kho āyasmā sāriputto tassa
bhikkhuno paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho
āyasmantaṃ sāriputtaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘saccaṃ kira tayā, sāriputta,
aññā byākatā – ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ,
nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāmī’’ti? ‘‘Na kho, bhante, etehi padehi etehi
byañjanehi attho [attho ca (syā. kaṃ. ka.)]
vutto’’ti. ‘‘Yena kenacipi, sāriputta, pariyāyena kulaputto aññaṃ
byākaroti, atha kho byākataṃ byākatato daṭṭhabba’’nti. ‘‘Nanu ahampi , bhante, evaṃ vadāmi – ‘na kho, bhante, etehi padehi etehi byañjanehi attho vutto’’’ti.
‘‘Sace taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ – ‘kathaṃ jānatā pana tayā, āvuso sāriputta, kathaṃ passatā aññā
byākatā – khīṇā jāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ
itthattāyāti pajānāmī’ti. Evaṃ puṭṭho tvaṃ, sāriputta, kinti
byākareyyāsī’’ti?
‘‘Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ – ‘kathaṃ jānatā pana tayā, āvuso sāriputta, kathaṃ passatā aññā byākatā – khīṇā jāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti; evaṃ puṭṭhohaṃ [puṭṭho ahaṃ (syā. kaṃ.), puṭṭhāhaṃ (pī. ka.)],
bhante, evaṃ byākareyyaṃ – ‘yaṃnidānā, āvuso, jāti, tassa nidānassa
khayā khīṇasmiṃ khīṇāmhīti viditaṃ. Khīṇāmhīti viditvā – khīṇājāti
vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti.
Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyya’’nti.
‘‘Sace pana taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ – ‘jāti
panāvuso sāriputta, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā’ti? Evaṃ
puṭṭho taṃ, sāriputta, kinti byākareyyāsī’’ti? ‘‘Sace maṃ, bhante, evaṃ
puccheyyuṃ – ‘jāti panāvuso sāriputta, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā
kiṃpabhavā’ti? Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ – ‘jāti kho,
āvuso, bhavanidānā bhavasamudayā bhavajātikā bhavappabhavā’ti. Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyya’’nti.
‘‘Sace pana taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ – ‘bhavo
panāvuso sāriputta, kiṃnidāno kiṃsamudayo kiṃjātiko kiṃpabhavo’ti? Evaṃ
puṭṭho tvaṃ, sāriputta, kinti byākareyyāsī’’ti? ‘‘Sace maṃ, bhante,
evaṃ puccheyyuṃ – ‘bhavo panāvuso sāriputta, kiṃnidāno kiṃsamudayo
kiṃjātiko kiṃpabhavo’ti ? Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante,
evaṃ byākareyyaṃ – ‘bhavo kho, āvuso, upādānanidāno upādānasamudayo
upādānajātiko upādānappabhavo’ti. Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ
byākareyya’’nti.
‘‘Sace pana taṃ, sāriputta,
evaṃ puccheyyuṃ – ‘upādānaṃ panāvuso…pe… sace pana taṃ, sāriputta, evaṃ
puccheyyuṃ – taṇhā panāvuso sāriputta, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā
kiṃpabhavā’ti? Evaṃ puṭṭho tvaṃ, sāriputta, kinti byākareyyāsī’’ti?
‘‘Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ – taṇhā
panāvuso sāriputta, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā’ti? Evaṃ
puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ – ‘taṇhā kho, āvuso, vedanānidānā
vedanāsamudayā vedanājātikā vedanāpabhavā’ti. Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante,
evaṃ byākareyya’’nti.
‘‘Sace pana taṃ, sāriputta,
evaṃ puccheyyuṃ – ‘kathaṃ jānato pana te, āvuso sāriputta, kathaṃ
passato yā vedanāsu nandī sā na upaṭṭhāsī’ti. Evaṃ puṭṭho tvaṃ,
sāriputta, kinti byākareyyāsī’’ti? ‘‘Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ –
‘kathaṃ jānato pana te, āvuso sāriputta, kathaṃ passato yā vedanāsu
nandī sā na upaṭṭhāsī’ti evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ –
‘tisso kho imā, āvuso, vedanā. Katamā tisso? Sukhā vedanā, dukkhā
vedanā, adukkhamasukhā vedanā. Imā kho, āvuso, tisso vedanā aniccā.
Yadaniccaṃ taṃ dukkhanti viditaṃ [viditā (ṭīkā)], yā vedanāsu nandī sā na upaṭṭhāsī’ti. Evaṃ, puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyya’’nti.
‘‘Sādhu sādhu, sāriputta. Ayampi kho, sāriputta,
pariyāyo, etasseva atthassa saṃkhittena veyyākaraṇāya – ‘yaṃ kiñci
vedayitaṃ taṃ dukkhasmi’’’nti.
‘‘Sace pana taṃ, sāriputta,
evaṃ puccheyyuṃ – ‘kathaṃ vimokkhā pana tayā, āvuso sāriputta, aññā
byākatā – khīṇā jāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ
itthattāyāti pajānāmī’ti? Evaṃ puṭṭho tvaṃ, sāriputta, kinti
byākareyyāsī’’ti? ‘‘Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ – ‘kathaṃ vimokkhā
pana tayā, āvuso sāriputta, aññā byākatā – khīṇā
jāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti
pajānāmī’ti. Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ – ‘ajjhattaṃ
vimokkhā khvāhaṃ, āvuso, sabbupādānakkhayā tathā sato viharāmi yathā
sataṃ viharantaṃ āsavā nānussavanti, attānañca nāvajānāmī’ti. Evaṃ
puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyya’’nti.
‘‘Sādhu sādhu, sāriputta.
Ayampi kho sāriputta, pariyāyo etasseva atthassa saṃkhittena
veyyākaraṇāya – ye āsavā samaṇena vuttā tesvāhaṃ na kaṅkhāmi, te me
pahīnāti na vicikicchāmī’’ti. Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvā sugato
uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi.
Tatra kho āyasmā sāriputto acirapakkantassa
bhagavato bhikkhū āmantesi – ‘‘pubbe appaṭisaṃviditaṃ maṃ, āvuso,
bhagavā paṭhamaṃ pañhaṃ apucchi, tassa me ahosi dandhāyitattaṃ. Yato ca
kho me, āvuso, bhagavā paṭhamaṃ pañhaṃ anumodi, tassa mayhaṃ, āvuso,
etadahosi – divasaṃ cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya aññamaññehi
padehi aññamaññehi pariyāyehi, divasampāhaṃ bhagavato etamatthaṃ
byākareyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi. Rattiṃ cepi maṃ
bhagavā etamatthaṃ puccheyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi,
rattimpāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ aññamaññehi padehi
aññamaññehi pariyāyehi. Rattindivaṃ [rattidivaṃ (ka.)] cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi , rattindivampāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi. Dve
rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya…pe… dve
rattindivānipāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ…pe… tīṇi rattindivāni
cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya…pe… tīṇi rattindivānipāhaṃ
bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ…pe… cattāri rattindivāni cepi maṃ
bhagavā etamatthaṃ puccheyya…pe… cattāri rattindivānipāhaṃ
bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ…pe… pañca rattindivāni cepi maṃ
bhagavā etamatthaṃ puccheyya…pe… pañca rattindivānipāhaṃ bhagavato
etamatthaṃ byākareyyaṃ…pe… cha rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ
puccheyya…pe… cha rattindivānipāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ…pe…
satta rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya aññamaññehi
padehi aññamaññehi pariyāyehi, satta rattindivānipāhaṃ bhagavato
etamatthaṃ byākareyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehī’’ti.
Atha kho kaḷārakhattiyo bhikkhu uṭṭhāyāsanā yena
bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ
nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho kaḷārakhattiyo bhikkhu bhagavantaṃ
etadavoca – ‘‘āyasmatā, bhante, sāriputtena sīhanādo nadito – pubbe
appaṭisaṃviditaṃ maṃ, āvuso, bhagavā paṭhamaṃ pañhaṃ apucchi, tassa me
ahosi dandhāyitattaṃ. Yato ca kho me, āvuso, bhagavā paṭhamaṃ pañhaṃ anumodi ,
tassa mayhaṃ, āvuso, etadahosi – divasaṃ cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ
puccheyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, divasampāhaṃ
bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi
pariyāyehi; rattiṃ cepi…pe… rattindivaṃ cepi maṃ bhagavā…pe… dve
rattindivāni cepi maṃ bhagavā…pe… tīṇi… cattāri… pañca… cha… satta
rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya
aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, satta rattindivānipāhaṃ
bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi
pariyāyehī’’ti.
‘‘Sā hi, bhikkhu, sāriputtassa dhammadhātu
suppaṭividdhā, yassā dhammadhātuyā suppaṭividdhattā divasaṃ cepāhaṃ
sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi
pariyāyehi, divasampi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya aññamaññehi
padehi aññamaññehi pariyāyehi. Rattiṃ cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ
puccheyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, rattimpi me
sāriputto etamatthaṃ byākareyya…pe… rattindivaṃ cepāhaṃ sāriputtaṃ
etamatthaṃ puccheyyaṃ, rattindivampi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya…
dve rattindivāni cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ, dve
rattindivānipi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya… tīṇi rattindivāni
cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ, tīṇi rattindivānipi me sāriputto etamatthaṃ
byākareyya… cattāri rattindivāni cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ
puccheyyaṃ, cattāri rattindivānipi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya…
pañca rattindivāni cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ, pañca
rattindivānipi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya… cha rattindivāni
cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ, cha rattindivānipi me
sāriputto etamatthaṃ byākareyya… satta rattindivāni cepāhaṃ sāriputtaṃ
etamatthaṃ puccheyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, satta
rattindivānipi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya aññamaññehi padehi
aññamaññehi pariyāyehī’’ti. Dutiyaṃ.
Chú giải Pāḷi:
2. Kaḷārasuttavaṇṇanā
32. Dutiye kaḷārakhattiyoti tassa therassa nāmaṃ. Dantā panassa kaḷārā visamasaṇṭhānā, tasmā ‘‘kaḷāro’’ti vuccati. Hīnāyāvattoti hīnassa gihibhāvassa atthāya nivatto. Assāsamalatthāti
assāsaṃ avassayaṃ patiṭṭhaṃ na hi nūna alattha, tayo magge tīṇi ca
phalāni nūna nālatthāti dīpeti. Yadi hi tāni labheyya, na sikkhaṃ
paccakkhāya hīnāyāvatteyyāti ayaṃ therassa adhippāyo. Na khvāhaṃ, āvusoti ahaṃ kho, āvuso, ‘‘assāsaṃ patto, na patto’’ti na kaṅkhāmi. Therassa hi sāvakapāramīñāṇaṃ avassayo, tasmā so na kaṅkhati. Āyatiṃ panāvusoti iminā ‘‘āyatiṃ paṭisandhi tumhākaṃ ugghāṭitā, na ugghāṭitā’’ti arahattappattiṃ pucchati. Na khvāhaṃ, āvuso, vicikicchāmīti iminā thero tattha vicikicchābhāvaṃ dīpeti.
Yena bhagavā tenupasaṅkamīti ‘‘imaṃ sutakāraṇaṃ bhagavato ārocessāmī’’ti upasaṅkami. Aññā byākatāti arahattaṃ byākataṃ. Khīṇā jātīti na therena evaṃ byākatā, ayaṃ pana thero tuṭṭho pasanno evaṃ padabyañjanāni āropetvā āha. Aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesīti
taṃ sutvā satthā cintesi – ‘‘sāriputto dhīro gambhīro. Na so kenaci
kāraṇena evaṃ byākarissati. Saṃkhittena pana pañho byākato bhavissati. Pakkosāpetvā naṃ pañhaṃ byākarāpessāmī’’ti aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi.
Sace taṃ sāriputtāti idaṃ
bhagavā ‘‘na esa attano dhammatāya aññaṃ byākarissati, pañhametaṃ
pucchissāmi, taṃ kathentova aññaṃ byākarissatī’’ti aññaṃ byākarāpetuṃ
evaṃ pucchi. Yaṃnidānāvuso, jātīti, āvuso, ayaṃ
jāti nāma yaṃpaccayā, tassa paccayassa khayā khīṇasmiṃ jātiyā paccaye
jātisaṅkhātaṃ phalaṃ khīṇanti viditaṃ. Idhāpi ca thero pañhe akaṅkhitvā
ajjhāsaye kaṅkhati. Evaṃ kirassa ahosi – ‘‘aññā nāma taṇhā khīṇā,
upādānaṃ khīṇaṃ, bhavo khīṇo, paccayo khīṇo, kilesā khīṇātiādīhi bahūhi
kāraṇehi sakkā byākātuṃ, kathaṃ kathento pana satthu ajjhāsayaṃ gahetuṃ
sakkhissāmī’’ti.
Kiñcāpi evaṃ ajjhāsaye kaṅkhati, pañhaṃ pana
aṭṭhapetvāva paccayākāravasena byākāsi. Satthāpi paccayākāravaseneva
byākarāpetukāmo, tasmā esa byākarontova ajjhāsayaṃ gaṇhi. Tāvadeva
‘‘gahito me satthu ajjhāsayo’’ti aññāsi. Athassa nayasatena
nayasahassena pañhabyākaraṇaṃ upaṭṭhāsi. Yasmā pana bhagavā uttari
pañhaṃ pucchati, tasmā tena taṃ byākaraṇaṃ anumoditanti veditabbaṃ.
Kathaṃjānato pana teti
idaṃ kasmā ārabhi? Savisaye sīhanādaṃ nadāpetuṃ. Thero kira
sūkaranikhātaleṇadvāre dīghanakhaparibbājakassa vedanāpariggahasutte
kathiyamāne tālavaṇṭaṃ gahetvā satthāraṃ
bījayamāno ṭhito tisso vedanā pariggahetvā sāvakapāramīñāṇaṃ adhigato,
ayamassa savisayo. Imasmiṃ savisaye ṭhito sīhanādaṃ nadissatīti naṃ
sandhāya satthā idaṃ pañhaṃ pucchi. Aniccāti hutvā abhāvaṭṭhena aniccā. Yadaniccaṃ taṃ dukkhanti
ettha kiñcāpi sukhā vedanā ṭhitisukhā vipariṇāmadukkhā, dukkhā vedanā
ṭhitidukkhā vipariṇāmasukhā, adukkhamasukhā ñāṇasukhā aññāṇadukkhā,
vipariṇāmakoṭiyā pana sabbāva dukkhā nāma jātā. Viditanti yasmā evaṃ vedanāttayaṃ dukkhanti viditaṃ, tasmā yā tattha taṇhā, sā na upaṭṭhāsīti dasseti.
Sādhusādhūti
therassa vedanāparicchedajānane sampahaṃsanaṃ. Thero hi vedanā ekāti vā
dve tisso catassoti vā avuttepi vuttanayena tāsaṃ tissoti paricchedaṃ
aññāsi, tena taṃ bhagavā sampahaṃsanto evamāha. Dukkhasminti
idaṃ bhagavā iminā adhippāyena āha – ‘‘sāriputta, yaṃ tayā ‘iminā
kāraṇena vedanāsu taṇhā na upaṭṭhāsī’ti byākataṃ, taṃ subyākataṃ. ‘Tisso
vedanā’ti vibhajantena pana te atippapañco kato, taṃ ‘dukkhasmi’nti
byākarontenapi hi te subyākatameva bhaveyya. Yaṃkiñci vedayitaṃ, taṃ
dukkhanti ñātamattepi hi vedanāsu taṇhā na tiṭṭhati’’.
Kathaṃ vimokkhāti katarā vimokkhā, katarena vimokkhena tayā aññā byākatāti attho? Ajjhattaṃ vimokkhāti
ajjhattavimokkhena, ajjhattasaṅkhāre pariggahetvā pattaarahattenāti
attho. Tattha catukkaṃ veditabbaṃ – ajjhattaṃ abhiniveso ajjhattaṃ
vuṭṭhānaṃ, ajjhattaṃ abhiniveso bahiddhā vuṭṭhānaṃ, bahiddhā abhiniveso
bahiddhā vuṭṭhānaṃ, bahiddhā abhiniveso ajjhattaṃ
vuṭṭhānanti. Ajjhattañhi abhinivesitvā bahiddhādhammāpi daṭṭhabbāyeva,
bahiddhā abhinivesitvā ajjhattadhammāpi. Tasmā koci bhikkhu ajjhattaṃ
saṅkhāresu ñāṇaṃ otāretvā te vavatthapetvā bahiddhā otāreti, bahiddhāpi
pariggahetvā puna ajjhattaṃ otāreti, tassa ajjhatta saṅkhāre
sammasanakāle maggavuṭṭhānaṃ hoti. Iti ajjhattaṃ abhiniveso ajjhattaṃ
vuṭṭhānaṃ nāma. Koci ajjhattaṃ saṅkhāresu ñāṇaṃ otāretvā te
vavatthapetvā bahiddhā otāreti, tassa bahiddhā saṅkhāre sammasanakāle
maggavuṭṭhānaṃ hoti. Iti ajjhattaṃ abhiniveso
bahiddhā vuṭṭhānaṃ nāma. Koci bahiddhā saṅkhāresu ñāṇaṃ otāretvā, te
vavatthapetvā ajjhattaṃ otāreti, ajjhattampi pariggahetvā puna bahiddhā
otāreti, tassa bahiddhā saṅkhāre sammasanakāle maggavuṭṭhānaṃ hoti. Iti
bahiddhā abhiniveso bahiddhā vuṭṭhānaṃ nāma. Koci bahiddhā saṅkhāresu
ñāṇaṃ otāretvā te vavatthapetvā ajjhattaṃ otāreti, tassa
ajjhattasaṅkhāre sammasanakāle maggavuṭṭhānaṃ hoti. Iti bahiddhā
abhiniveso ajjhattaṃ vuṭṭhānaṃ nāma. Tatra thero ‘‘ajjhattasaṅkhāre
pariggahetvā tesaṃ vavatthānakāle maggavuṭṭhānena arahattaṃ pattosmī’’ti
dassento ajjhattaṃ vimokkhā khvāhaṃ, āvusoti āha.
Sabbupādānakkhayāti sabbesaṃ catunnampi upādānānaṃ khayena. Tathā sato viharāmīti tenākārena satiyā samannāgato viharāmi. Yathā sataṃ viharantanti yenākārena maṃ satiyā samannāgataṃ viharantaṃ. Āsavā nānussavantīti
cakkhuto rūpe savanti āsavanti sandanti pavattantīti evaṃ chahi dvārehi
chasu ārammaṇesu savanadhammā kāmāsavādayo āsavā nānussavanti
nānuppavaḍḍhanti, yathā me na uppajjantīti attho. Attānañca nāvajānāmīti attānañca na avajānāmi. Iminā omānapahānaṃ kathitaṃ. Evañhi sati pajānanā pasannā hoti.
Samaṇenāti buddhasamaṇena. Tesvāhaṃ na kaṅkhāmīti tesu ahaṃ ‘‘kataro kāmāsavo, kataro bhavāsavo, kataro diṭṭhāsavo, kataro avijjāsavo’’ti evaṃ sarūpabhedatopi, ‘‘cattāro āsavā’’ti evaṃ gaṇanaparicchedatopi na kaṅkhāmi. Te me pahīnāti na vicikicchāmīti
te mayhaṃ pahīnāti vicikicchaṃ na uppādemi. Idaṃ bhagavā ‘‘evaṃ
byākarontenapi tayā subyākataṃ bhaveyya ‘ajjhattaṃ vimokkhā khvāhaṃ,
āvuso’tiādīni pana te vadantena atippapañco kato’’ti dassento āha.
Uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisīti
paññattavarabuddhāsanato uṭṭhahitvā vihāraṃ antomahāgandhakuṭiṃ pāvisi
asambhinnāya eva parisāya. Kasmā? Buddhā hi aniṭṭhitāya desanāya
asambhinnāya parisāya uṭṭhāyāsanā gandhakuṭiṃ pavisantā
puggalathomanatthaṃ vā pavisanti dhammathomanatthaṃ vā. Tattha
puggalathomanatthaṃ pavisanto satthā evaṃ cintesi – ‘‘imaṃ mayā
saṃkhittena uddesaṃ uddiṭṭhaṃ vitthārena ca avibhattaṃ dhammapaṭiggāhakā
bhikkhū uggahetvā ānandaṃ vā kaccāyanaṃ vā upasaṅkamitvā pucchissanti,
te mayhaṃ ñāṇena saṃsandetvā kathessanti, tatopi dhammapaṭiggāhakā puna
maṃ pucchissanti. Tesamahaṃ ‘sukathitaṃ, bhikkhave, ānandena, sukathitaṃ
kaccāyanena, maṃ cepi tumhe etamatthaṃ
puccheyyātha, ahampi naṃ evameva byākareyya’nti evaṃ te puggale
thomessāmi. Tato tesu gāravaṃ janetvā bhikkhū upasaṅkamissanti, tepi
bhikkhū atthe ca dhamme ca niyojessanti, te tehi niyojitā tisso sikkhā
paripūretvā dukkhassantaṃ karissantī’’ti.
Atha vā panassa evaṃ hoti –
‘‘esa mayi pakkante attano ānubhāvaṃ karissati, atha naṃ ahampi tatheva
thomessāmi, taṃ mama thomanaṃ sutvā gāravajātā bhikkhū imaṃ
upasaṅkamitabbaṃ, vacanañcassa sotabbaṃ saddhātabbaṃ maññissanti, taṃ
tesaṃ bhavissati dīgharattaṃ hitāya sukhāyā’’ti dhammathomanatthaṃ
pavisanto evaṃ cintesi yathā dhammadāyādasutte cintesi. Tatra hissa evaṃ
ahosi – ‘‘mayi vihāraṃ paviṭṭhe āmisadāyādaṃ garahanto dhammadāyādañca
thomento imissaṃyeva parisati nisinno sāriputto dhammaṃ desessati, evaṃ
dvinnampi amhākaṃ ekajjhāsayāya matiyā desitā ayaṃ desanā aggā ca garukā
ca bhavissati pāsāṇacchattasadisā’’ti.
Idha pana āyasmantaṃ
sāriputtaṃ ukkaṃsetvā pakāsetvā ṭhapetukāmo puggalathomanatthaṃ
uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi. Īdisesu ṭhānesu bhagavā nisinnāsaneyeva
antarahito cittagatiyā vihāraṃ pavisatīti veditabbo. Yadi hi kāyagatiyā
gaccheyya, sabbā parisā bhagavantaṃ parivāretvā gaccheyya, sā ekavāraṃ
bhinnā puna dussannipātā bhaveyyāti bhagavā adissamānena kāyena
cittagatiyā eva pāvisi.
Evaṃ paviṭṭhe pana bhagavati bhagavato adhippāyānurūpameva sīhanādaṃ naditukāmo tatra kho āyasmā sāriputto acirapakkantassa bhagavato bhikkhū āmantesi. Pubbe appaṭisaṃviditanti idaṃ nāma pucchissatīti pubbe mayā aviditaṃ aññātaṃ. Paṭhamaṃ pañhanti,
‘‘sace taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ kathaṃ jānatā pana tayā, āvuso
sāriputta, kathaṃ passatā aññā byākatā khīṇā jātī’’ti imaṃ paṭhamaṃ
pañhaṃ. Dandhāyitattanti satthu āsayajānanatthaṃ dandhabhāvo asīghatā. Paṭhamaṃ pañhaṃ anumodīti,
‘‘jāti panāvuso sāriputta, kiṃnidānā’’ti imaṃ dutiyaṃ pañhaṃ pucchanto,
‘‘yaṃnidānāvuso, jātī’’ti evaṃ vissajjitaṃ paṭhamaṃ pañhaṃ anumodi.
Etadahosīti bhagavatā anumodite nayasatena nayasahassena pañhassa ekaṅgaṇikabhāvena pākaṭībhūtattā etaṃ ahosi. Divasampāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyanti sakaladivasampi ahaṃ bhagavato etaṃ paṭiccasamuppādatthaṃ puṭṭho sakaladivasampi aññamaññehi padabyañjanehi byākareyyaṃ. Yena bhagavā tenupasaṅkamīti
evaṃ kirassa ahosi – ‘‘thero uḷārasīhanādaṃ nadati, sukāraṇaṃ etaṃ,
dasabalassa naṃ ārocessāmī’’ti. Tasmā yena bhagavā tenupasaṅkami.
Sā hi bhikkhu sāriputtassa dhammadhātūti
ettha dhammadhātūti paccayākārassa vivaṭabhāvadassanasamatthaṃ
sāvakapāramīñāṇaṃ. Sāvakānañhi sāvakapāramīñāṇaṃ
sabbaññutaññāṇagatikameva hoti. Yathā buddhānaṃ
atītānāgatapaccuppannā dhammā sabbaññutaññāṇassa pākaṭā honti, evaṃ
therassa sāvakapāramīñāṇaṃ sabbepi sāvakañāṇassa gocaradhamme jānātīti.
Dutiyaṃ.
No comments:
Post a Comment