Tập II - Chương I(a) – Phẩm (II) ĐỒ ĂN -
Bài 20. Duyên (Tạp 12.14, Đại 2,84b) (S.ii, 25)
Bài 20. Duyên (Tạp 12.14, Đại 2,84b) (S.ii, 25)
Chánh văn tiếng Việt:
XX. Duyên (Tạp 12.14, Ðại 2, 84b)
(S.ii,25)
1) Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các
Ông lý duyên khởi và các pháp duyên sanh. Hãy lắng nghe và khéo suy nghiệm, Ta
sẽ giảng.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
3) -- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là lý
duyên khởi? Do duyên sanh, này các Tỷ-kheo, già, chết khởi lên. Dầu các Như Lai
có xuất hiện hay không xuất hiện, an trú là giới tánh ấy, pháp trú tánh ấy, pháp
quyết định tánh ấy, y duyên tánh ấy. Như Lai hoàn toàn chứng ngộ, hoàn toàn
chứng đạt định lý ấy. Sau khi hoàn toàn chứng ngộ, hoàn toàn chứng đạt, Như Lai
tuyên bố, tuyên thuyết, tường thuyết, khai hiển, khai thị, phân biệt, minh hiển,
minh thị.
4) Do duyên sanh, này các Tỷ-kheo, nên có
già, chết. Do duyên hữu, này các Tỷ-kheo, nên có sanh. Do duyên thủ, này các
Tỷ-kheo, nên có hữu. Do duyên ái, này các Tỷ-kheo, nên có thủ. Do duyên thọ, này
các Tỷ-kheo, nên có ái. Do duyên xúc, này các Tỷ-kheo, nên có thọ. Do duyên sáu
xứ, này các Tỷ-kheo, nên có xúc. Do duyên danh sắc, này các Tỷ-kheo, nên có sáu
xứ. Do duyên thức, này các Tỷ-kheo, nên có danh sắc. Do duyên các hành, này các
Tỷ-kheo, nên có thức. Do duyên vô minh, này các Tỷ-kheo, nên có hành. Dầu cho
Như Lai có xuất hiện hay không xuất hiện, an trú là giới tánh ấy, pháp trú tánh
ấy, pháp quyết định tánh ấy, y duyên tánh ấy. Như Lai hoàn toàn chứng ngộ, hoàn
toàn chứng đạt tánh ấy. Sau khi hoàn toàn chứng ngộ, hoàn toàn chứng đạt, Như
Lai tuyên bố, tuyên thuyết, tường thuyết, khai hiển, khai thị, phân biệt, minh
hiển, minh thị.
5) Do duyên vô minh, này các Tỷ-kheo, có các
hành. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là như tánh, bất hư vọng tánh, bất dị như
tánh, y duyên tánh ấy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là lý duyên khởi.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là duyên sanh
pháp? Già, chết, này các Tỷ-kheo, là vô thường, hữu vi, duyên sanh, biến hoại
tánh, biến diệt tánh, ly tham tánh, đoạn diệt tánh.
7) Sanh, này các Tỷ-kheo, là vô thường, hữu
vi, duyên sanh, biến hoại tánh, biến diệt tánh, ly tham tánh, đoạn diệt
tánh.
8) Hữu, này các Tỷ-kheo, là vô thường, hữu
vi, duyên sanh, biến hoại tánh, biến diệt tánh, ly tham tánh, đoạn diệt
tánh.
9) -- 16) Thủ, này các Tỷ-kheo... ái, này
các Tỷ-kheo... Thọ, này các Tỷ-kheo... Xúc, này các Tỷ-kheo... Sáu xứ, này các
Tỷ-kheo... Danh sắc, này các Tỷ-kheo... Thức, này các Tỷ-kheo... Các hành, này
các Tỷ-kheo...
17) Vô minh, này các Tỷ-kheo, là vô thường
hữu vi, duyên sanh, biến hoại tánh, biến diệt tánh, ly tham tánh, đoạn diệt
tánh. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, được gọi là duyên sanh pháp.
18) Do vì, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử
khéo thấy như chơn với chánh trí tuệ lý duyên khởi này và các pháp duyên sanh
này, nên chắc chắn vị ấy không chạy theo quá khứ (với những câu hỏi): "Ta có mặt
trong quá khứ? Ta không có mặt không quá khứ? Ta là gì trong quá khứ? Ta có mặt
như thế nào trong quá khứ? Hay trước ta đã là gì, và nay trong quá khứ ta là
gì?"
19) Hay không chạy theo tương lai (với những
câu hỏi): "Ta có mặt trong tương lai? Ta không có mặt trong tương lai? Ta sẽ làm
gì trong tương lai? Ta có mặt như thế nào trong tương lai? Hay trước ta là gì,
và nay trong tương lai ta sẽ là gì?"
20) Hay nay các vị ấy sẽ khởi lên những nghi
ngờ về tự mình trong hiện tại như sau: "Ta hiện có mặt? Ta hiện không có mặt? Ta
hiện là gì? Ta hiện có mặt như thế nào?" Sự kiện như vậy không xảy
ra.
21) Vì sao? Vì rằng vị Thánh đệ tử, này các
Tỷ-kheo, đã khéo thấy như chơn với chánh trí tuệ, định lý duyên khởi này với các
pháp duyên sanh này.
Chánh văn Pāḷi:
10. Paccayasuttaṃ
20.
Sāvatthiyaṃ viharati…pe… ‘‘paṭiccasamuppādañca vo, bhikkhave, desessāmi
paṭiccasamuppanne ca dhamme. Taṃ suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha,
bhāsissāmī’’ti. ‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
Bhagavā etadavoca –
‘‘Katamo ca, bhikkhave, paṭiccasamuppādo?
Jātipaccayā, bhikkhave, jarāmaraṇaṃ. Uppādā vā tathāgatānaṃ anuppādā vā
tathāgatānaṃ, ṭhitāva sā dhātu dhammaṭṭhitatā dhammaniyāmatā
idappaccayatā. Taṃ tathāgato abhisambujjhati abhisameti.
Abhisambujjhitvā abhisametvā ācikkhati deseti paññāpeti paṭṭhapeti
vivarati vibhajati uttānīkaroti. ‘Passathā’ti cāha – ‘jātipaccayā,
bhikkhave, jarāmaraṇaṃ’’’.
‘‘Bhavapaccayā, bhikkhave, jāti…pe… upādānapaccayā,
bhikkhave, bhavo… taṇhāpaccayā, bhikkhave, upādānaṃ… vedanāpaccayā,
bhikkhave, taṇhā… phassapaccayā, bhikkhave, vedanā… saḷāyatanapaccayā,
bhikkhave, phasso… nāmarūpapaccayā, bhikkhave, saḷāyatanaṃ…
viññāṇapaccayā, bhikkhave, nāmarūpaṃ… saṅkhārapaccayā, bhikkhave,
viññāṇaṃ… avijjāpaccayā, bhikkhave, saṅkhārā uppādā vā tathāgatānaṃ
anuppādā vā tathāgatānaṃ, ṭhitāva sā dhātu dhammaṭṭhitatā dhammaniyāmatā
idappaccayatā. Taṃ tathāgato abhisambujjhati abhisameti . Abhisambujjhitvā abhisametvā ācikkhati
deseti paññāpeti paṭṭhapeti vivarati vibhajati uttānīkaroti.
‘Passathā’ti cāha ‘avijjāpaccayā, bhikkhave, saṅkhārā’. Iti kho,
bhikkhave, yā tatra tathatā avitathatā anaññathatā idappaccayatā – ayaṃ
vuccati, bhikkhave, paṭiccasamuppādo.
‘‘Katame ca, bhikkhave, paṭiccasamuppannā dhammā?
Jarāmaraṇaṃ, bhikkhave, aniccaṃ saṅkhataṃ paṭiccasamuppannaṃ
khayadhammaṃ vayadhammaṃ virāgadhammaṃ nirodhadhammaṃ. Jāti, bhikkhave,
aniccā saṅkhatā paṭiccasamuppannā khayadhammā
vayadhammā virāgadhammā nirodhadhammā. Bhavo, bhikkhave, anicco saṅkhato
paṭiccasamuppanno khayadhammo vayadhammo virāgadhammo nirodhadhammo.
Upādānaṃ bhikkhave…pe… taṇhā, bhikkhave… vedanā, bhikkhave… phasso,
bhikkhave… saḷāyatanaṃ, bhikkhave… nāmarūpaṃ, bhikkhave… viññāṇaṃ ,
bhikkhave… saṅkhārā, bhikkhave… avijjā, bhikkhave, aniccā saṅkhatā
paṭiccasamuppannā khayadhammā vayadhammā virāgadhammā nirodhadhammā. Ime
vuccanti, bhikkhave, paṭiccasamuppannā dhammā.
‘‘Yato kho, bhikkhave, ariyasāvakassa ‘ayañca
paṭiccasamuppādo, ime ca paṭiccasamuppannā dhammā’ yathābhūtaṃ
sammappaññāya sudiṭṭhā honti, so vata pubbantaṃ vā paṭidhāvissati –
‘ahosiṃ nu kho ahaṃ [nu khvāhaṃ (syā. kaṃ. pī. ka.)]
atītamaddhānaṃ, nanu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ, kiṃ nu kho ahosiṃ
atītamaddhānaṃ, kathaṃ nu kho ahosiṃ atītamaddhānaṃ, kiṃ hutvā kiṃ
ahosiṃ nu kho ahaṃ atītamaddhāna’nti; aparantaṃ vā upadhāvissati [apadhāvissati (ka.)] – ‘bhavissāmi nu kho ahaṃ anāgatamaddhānaṃ, nanu kho bhavissāmi anāgatamaddhānaṃ ,
kiṃ nu kho bhavissāmi anāgatamaddhānaṃ, kathaṃ nu kho bhavissāmi
anāgatamaddhānaṃ, kiṃ hutvā kiṃ bhavissāmi nu kho ahaṃ
anāgatamaddhāna’nti; etarahi vā paccuppannaṃ addhānaṃ ajjhattaṃ
kathaṃkathī bhavissati – ‘ahaṃ nu khosmi, no nu khosmi, kiṃ nu khosmi,
kathaṃ nu khosmi, ayaṃ nu kho satto kuto āgato, so kuhiṃ gamissatī’ti –
netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Taṃ kissa hetu? Tathāhi, bhikkhave, ariyasāvakassa
ayañca paṭiccasamuppādo ime ca paṭiccasamuppannā dhammā yathābhūtaṃ
sammappaññāya sudiṭṭhā’’ti. Dasamaṃ.
Āhāravaggo dutiyo.
Chú giải Pāḷi:
10. Paccayasuttavaṇṇanā
20. Dasame paṭiccasamuppādañca vo bhikkhave, desessāmi paṭiccasamuppanne ca dhammeti satthā imasmiṃ sutte paccaye ca paccayanibbatte ca sabhāvadhamme desessāmīti ubhayaṃ ārabhi. Uppādā vā tathāgatānanti tathāgatānaṃ uppādepi, buddhesu uppannesu anuppannesupi jātipaccayā jarāmaraṇaṃ, jātiyeva jarāmaraṇassa paccayo. Ṭhitāva sā dhātūti ṭhitova so paccayasabhāvo, na kadāci jāti jarāmaraṇassa paccayo na hoti. Dhammaṭṭhitatā dhammaniyāmatāti
imehipi dvīhi paccayameva katheti. Paccayena hi paccayuppannā dhammā
tiṭṭhanti, tasmā paccayova ‘‘dhammaṭṭhitatā’’ti vuccati. Paccayo dhamme
niyameti, tasmā ‘‘dhammaniyāmatā’’ti vuccati. Idappaccayatāti imesaṃ jarāmaraṇādīnaṃ paccayā idappaccayā, idappaccayāva idappaccayatā. Tanti taṃ paccayaṃ. Abhisambujjhatīti ñāṇena abhisambujjhati. Abhisametīti ñāṇena abhisamāgacchati. Ācikkhatīti katheti. Desetīti dasseti. Paññāpetīti jānāpeti. Paṭṭhapetīti ñāṇamukhe ṭhapeti. Vivaratīti vivaritvā dasseti. Vibhajatīti vibhāgato dasseti. Uttānīkarotīti pākaṭaṃ karoti. Passathāti cāhāti passatha iti ca vadati. Kinti? Jātipaccayā, bhikkhave, jarāmaraṇantiādi.
Itikho, bhikkhaveti evaṃ kho, bhikkhave. Yā tatrāti yā tesu ‘‘jātipaccayā jarāmaraṇa’’ntiādīsu. Tathatātiādīni paccayākārasseva vevacanāni. So tehi tehi paccayehi anūnādhikeheva tassa tassa dhammassa sambhavato tathatāti, sāmaggiṃ upagatesu paccayesu muhuttampi tato nibbattānaṃ dhammānaṃ asambhavābhāvato avitathatāti, aññadhammapaccayehi aññadhammānuppattito anaññathatāti, jarāmaraṇādīnaṃ paccayato vā paccayasamūhato vā idappaccayatāti
vutto. Tatrāyaṃ vacanattho – imesaṃ paccayā idappaccayā, idappaccayā
eva idappaccayatā, idappaccayānaṃ vā samūho idappaccayatā. Lakkhaṇaṃ
panettha saddasatthato veditabbaṃ.
Aniccanti hutvā
abhāvaṭṭhena aniccaṃ. Ettha ca aniccanti na jarāmaraṇaṃ aniccaṃ,
aniccasabhāvānaṃ pana khandhānaṃ jarāmaraṇattā aniccaṃ nāma jātaṃ. Saṅkhatādīsupi eseva nayo. Ettha ca saṅkhatanti paccayehi samāgantvā kataṃ. Paṭiccasamuppannanti paccaye nissāya uppannaṃ. Khayadhammanti khayasabhāvaṃ. Vayadhammanti vigacchanakasabhāvaṃ. Virāgadhammanti virajjanakasabhāvaṃ. Nirodhadhammanti
nirujjhanakasabhāvaṃ. Jātiyāpi vuttanayeneva aniccatā veditabbā.
Janakapaccayānaṃ vā kiccānubhāvakkhaṇe diṭṭhattā ekena pariyāyenettha
aniccātiādīni yujjantiyeva. Bhavādayo aniccādisabhāvāyeva.
Sammappaññāyāti savipassanāya maggapaññāya. Pubbantanti purimaṃ atītanti attho. Ahosiṃ nu khotiādīsu
‘‘ahosiṃ nu kho nanu kho’’ti sassatākārañca adhiccasamuppattiākārañca
nissāya atīte attano vijjamānatañca avijjamānatañca kaṅkhati. Kiṃ
kāraṇanti na vattabbaṃ, ummattako viya bālaputhujjano yathā vā tathā vā
pavattati. Kiṃ nu kho ahosinti
jātiliṅgupapattiyo nissāya ‘‘khattiyo nu kho ahosiṃ,
brāhmaṇavessasuddagahaṭṭhapabbajitadevamanussānaṃ aññataro’’ti kaṅkhati.
Kathaṃ nu khoti
saṇṭhānākāraṃ nissāya ‘‘dīgho nu kho ahosiṃ
rassaodātakaṇhapamāṇikaappamāṇikādīnaṃ aññataro’’ti kaṅkhati. Keci pana
‘‘issaranimmānādīni nissāya ‘kena nu kho kāraṇena ahosi’nti hetuto
kaṅkhatī’’ti vadanti. Kiṃ hutvā kiṃ ahosinti
jātiādīni nissāya ‘‘khattiyo hutvā nu kho brāhmaṇo ahosiṃ…pe… devo hutvā
manusso’’ti attano paramparaṃ kaṅkhati. Sabbattheva pana addhānanti kālādhivacanametaṃ. Aparantanti anāgataṃ antaṃ. Bhavissāmi nu kho nanu khoti sassatākārañca ucchedākārañca nissāya anāgate attano vijjamānatañca avijjamānatañca kaṅkhati. Sesamettha vuttanayameva.
Etarahivā paccuppannaṃ addhānanti idāni vā paṭisandhimādiṃ katvā cutipariyantaṃ sabbampi vattamānakālaṃ gahetvā. Ajjhattaṃ kathaṃkathī bhavissatīti attano khandhesu vicikicchī bhavissati. Ahaṃ nu khosmīti
attano atthibhāvaṃ kaṅkhati. Yuttaṃ panetanti? Yuttaṃ ayuttanti kā
ettha cintā. Apicettha idaṃ vatthumpi udāharanti – cūḷamātāya kira putto
muṇḍo, mahāmātāya putto amuṇḍo, taṃ puttaṃ muṇḍesuṃ, so uṭṭhāya ‘‘ahaṃ
nu kho cūḷamātāya putto’’ti cintesi. Evaṃ ahaṃ nu khosmīti kaṅkhā hoti. No nu khosmīti
attano natthibhāvaṃ kaṅkhati. Tatrāpi idaṃ vatthu – eko kira macche
gaṇhanto udake ciraṭṭhānena sītibhūtaṃ attano ūruṃ macchoti cintetvā
pahari. Aparo susānapasse khettaṃ rakkhanto bhīto saṅkuṭito sayi, so
paṭibujjhitvā attano jaṇṇukāni dve yakkhāti cintetvā pahari. Evaṃ no nu
khosmīti kaṅkhati.
Kiṃ nu khosmīti khattiyova
samāno attano khattiyabhāvaṃ kaṅkhati. Eseva nayo sesesupi. Devo pana
samāno devabhāvaṃ ajānanto nāma natthi, sopi pana ‘‘ahaṃ rūpī nu kho
arūpī nu kho’’tiādinā nayena kaṅkhati. Khattiyādayo kasmā na jānantīti
ce? Apaccakkhā tesaṃ tattha tattha kule uppatti.
Gahaṭṭhāpi ca potthalikādayo pabbajitasaññino, pabbajitāpi ‘‘kuppaṃ nu
kho me kamma’’ntiādinā nayena gahaṭṭhasaññino. Manussāpi ca rājāno viya
attani devasaññino honti. Kathaṃ nu khosmīti
vuttanayameva. Kevalañhettha abbhantare jīvo nāma atthīti gahetvā tassa
saṇṭhānākāraṃ nissāya ‘‘dīgho nu khosmi
rassacaturassachaḷaṃsaaṭṭhaṃsasoḷasaṃsādīnaṃ aññatarappakāro’’ti
kaṅkhanto kathaṃ nu khosmīti? Kaṅkhatīti veditabbo. Sarīrasaṇṭhānaṃ pana
paccuppannaṃ ajānanto nāma natthi. Kuto āgato so kuhiṃ gāmī bhavissatīti attabhāvassa āgatigatiṭṭhānaṃ kaṅkhanto evaṃ kaṅkhati. Ariyasāvakassāti idha sotāpanno adhippeto, itarepi pana tayo avāritāyevāti. Dasamaṃ.
Āhāravaggo dutiyo.
No comments:
Post a Comment