Tập II - Chương I(a) – Phẩm (II) ĐỒ ĂN -
Bài 17. Lõa Thể (Tạp 12.20, Đại 2,86a Đại 14,768) (S.ii, 18)
Bài 17. Lõa Thể (Tạp 12.20, Đại 2,86a Đại 14,768) (S.ii, 18)
Chánh văn tiếng Việt:
XVII. Loã Thể (Tạp 12.20, Ðại 2,86a
Ðại 14,768) (S.ii,18)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá),
Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y
bát, đi vào Ràjagaha để khất thực.
3) Lõa thể Kassapa thấy Thế Tôn từ xa đi
đến. Sau khi thấy, lõa thể Kassapa đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên những
lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu,
liền đứng một bên.
4) Ðứng một bên, lõa thể Kassapa bạch Thế
Tôn:
-- Chúng tôi muốn hỏi Tôn giả Gotama về một
vấn đề. Nếu Tôn giả Gotama cho phép, chúng tôi sẽ hỏi câu hỏi.
-- Này Kassapa, nay không phải thời để hỏi.
Chúng ta đã vào trong làng.
5) Lần thứ hai, lõa thể Kassapa bạch Thế
Tôn:
-- Chúng tôi muốn hỏi Tôn giả Gotama về một
vấn đề. Nếu Tôn giả Gotama cho phép, chúng tôi sẽ hỏi câu hỏi.
-- Này Kassapa, nay không phải thời để hỏi.
Chúng ta đã vào trong làng.
6) Lần thứ ba, lõa thể Kassapa... (như
trên)... Chúng ta đã vào trong làng.
Khi được nói vậy, lõa thể Kassapa bạch Thế
Tôn:
-- Nhưng không phải chúng tôi muốn hỏi Tôn
giả Gotama nhiều chuyện.
-- Vậy hãy hỏi đi, này Kassapa, như Ông
muốn.
7) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do tự
mình làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Kassapa.
8) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do
người khác làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Kassapa.
9) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do
mình làm ra và do người khác làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Kassapa.
10) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ
không do tự mình làm ra, không do người khác làm ra, khổ do tự nhiên
sanh?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Kassapa.
11) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ
không có?
-- Này Kassapa, không phải khổ không có. Khổ
có, này Kassapa.
12) -- Như vậy, Tôn giả Gotama không biết,
không thấy khổ.
-- Này Kassapa, không phải Ta không biết,
không thấy khổ. Này Kassapa, Ta biết khổ, này Kassapa, Ta thấy khổ.
13) -- Ðược hỏi: "Tôn giả Gotama, khổ có
phải tự mình làm ra", Ngài trả lời: "Không phải vậy, này Kassapa". Ðược hỏi:
"Tôn giả Gotama, khổ có phải do người khác làm ra?", Ngài trả lời: "Không phải
vậy, này Kassapa". Ðược hỏi: "Tôn giả Gotama, khổ có phải do tự mình làm ra và
do người khác làm ra?", Ngài trả lời: "Không phải vậy, này Kassapa". Ðược hỏi:
"Tôn giả Gotama, có phải khổ không do tự mình làm ra và không do người khác làm
ra, khổ do tự nhiên sanh?", Ngài trả lời: "Không phải vậy, này Kassapa". Ðược
hỏi: "Tôn giả Gotama, có phải khổ không có?", Ngài trả lời: "Không phải khổ
không có. Khổ có, này Kassapa". Ðược hỏi: "Như vậy Tôn giả Gotama, không biết,
không thấy khổ?", Ngài trả lời: "Này Kassapa, không phải Ta không biết, không
thấy khổ. Này Kassapa, Ta biết khổ, này Kassapa, Ta thấy khổ". Bạch Thế Tôn, Thế
Tôn hãy nói lên cho con về khổ, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết cho con về
khổ.
14) -- Một người làm và chính người làm ấy
cảm thọ (kết quả). Này Kassapa, như Ông gọi ban đầu "khổ do tự mình làm ra", như
vậy có nghĩa là thường kiến.
Một người khác làm và một người khác cảm
thọ. Này Kassapa, như vậy đối với người bị cảm thọ, được xảy ra như: "Khổ do
người khác làm ra", như vậy có nghĩa là đoạn kiến.
15) Này Kassapa, từ bỏ hai cực đoan ấy, Như
Lai thuyết pháp theo con đường trung đạo. Vô minh duyên hành, hành duyên thức...
Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Nhưng do ly tham và đoạn diệt hoàn toàn
vô minh, các hành diệt. Do các hành diệt nên thức diệt... (như trên)... Như vậy
là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
16) Khi được nghe nói vậy, lõa thể Kassapa
bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi
diệu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng
ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn
sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp
đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Và nay con xin quy
y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Bạch Thế Tôn, con xin xuất gia với
Thế Tôn, con xin thọ đại giới.
17) -- Này Kassapa, ai trước kia là ngoại
đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này, phải sống bốn
tháng biệt trú; sau khi sống bốn tháng biệt trú, nếu chúng Tăng đồng ý sẽ cho
xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng Ta nhận thấy cá tánh con
người sai biệt nhau.
18) -- Bạch Thế Tôn, nếu những người xưa kia
là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này, phải
sống bốn tháng biệt trú; sau khi sống bốn tháng biệt trú, chúng Tăng nếu đồng ý
sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới, thời con sẽ xin sống biệt trú bốn năm, sau
khi sống biệt trú bốn năm nếu chúng Tăng đồng ý, mong chúng Tăng cho con xuất
gia, cho con thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo.
19) Và lõa thể Kassapa được xuất gia với Thế
Tôn và được thọ đại giới.
20) Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả
Kassapa ở một mình, an tịnh, không phóng dật, sống nhiệt tâm, tinh cần. Và không
bao lâu vị này chứng được mục đích tối cao mà con cháu các lương gia đã xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến; đó là vô thượng cứu cánh
Phạm hạnh ngay trong đời sống hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng
đạt và an trú. Vị này chứng tri: "Sanh đã tận. Phạm hạnh đã thành, những gì nên
làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa".
21) Và Tôn giả Kassapa trở thành một vị
A-la-hán nữa.
Chánh văn Pāḷi:
7. Acelakassapasuttaṃ
17. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya rājagahaṃ piṇḍāya pāvisi. Addasā kho acelo kassapo
bhagavantaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna yena bhagavā tenupasaṅkami;
upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ
vītisāretvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho acelo kassapo
bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘puccheyyāma mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ kañcideva [kiñcideva (ka.)] desaṃ, sace no bhavaṃ gotamo okāsaṃ karoti pañhassa veyyākaraṇāyā’’ti.
‘‘Akālo kho tāva, kassapa, pañhassa; antaragharaṃ
paviṭṭhamhā’’ti. Dutiyampi kho acelo kassapo bhagavantaṃ etadavoca
‘‘puccheyyāma mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ kañcideva desaṃ, sace no bhavaṃ
gotamo okāsaṃ karoti pañhassa veyyākaraṇāyā’’ti. ‘‘Akālo kho tāva,
kassapa, pañhassa; antaragharaṃ paviṭṭhamhā’’ti. Tatiyampi kho acelo
kassapo…pe… antaragharaṃ paviṭṭhamhāti. Evaṃ vutte, acelo kassapo
bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘na kho pana mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ bahudeva
pucchitukāmā’’ti. ‘‘Puccha, kassapa, yadākaṅkhasī’’ti.
‘‘Kiṃ nu kho, bho gotama, ‘sayaṃkataṃ dukkha’nti?
‘Mā hevaṃ, kassapā’ti bhagavā avoca. ‘Kiṃ pana, bho gotama, paraṃkataṃ
dukkha’nti? ‘Mā hevaṃ, kassapā’ti bhagavā avoca. ‘Kiṃ nu kho, bho
gotama, sayaṃkatañca paraṃkatañca dukkha’nti? ‘Mā hevaṃ, kassapā’ti
bhagavā avoca. ‘Kiṃ pana bho gotama, asayaṃkāraṃ aparaṃkāraṃ adhiccasamuppannaṃ dukkha’nti? ‘Mā hevaṃ, kassapā’ti bhagavā avoca. ‘Kiṃ nu
kho, bho gotama, natthi dukkha’nti? ‘Na kho, kassapa, natthi dukkhaṃ.
Atthi kho, kassapa, dukkha’nti. ‘Tena hi bhavaṃ gotamo dukkhaṃ na
jānāti, na passatī’ti. ‘Na khvāhaṃ, kassapa, dukkhaṃ na jānāmi, na
passāmi. Jānāmi khvāhaṃ, kassapa, dukkhaṃ; passāmi khvāhaṃ, kassapa,
dukkha’’’nti.
‘‘Ki nu kho, bho gotama, ‘sayaṃkataṃ dukkha’nti iti
puṭṭho samāno ‘mā hevaṃ, kassapā’ti vadesi. ‘Kiṃ pana, bho gotama,
paraṃkataṃ dukkha’nti iti puṭṭho samāno ‘mā
hevaṃ, kassapā’ti vadesi. ‘Kiṃ nu kho, bho gotama, sayaṃkatañca
paraṃkatañca dukkha’nti iti puṭṭho samāno ‘mā hevaṃ, kassapā’ti vadesi.
‘Kiṃ pana, bho gotama, asayaṃkāraṃ aparaṃkāraṃ adhiccasamuppannaṃ
dukkha’nti iti puṭṭho samāno ‘mā hevaṃ, kassapā’ti vadesi. ‘Kiṃ nu kho,
bho gotama, natthi dukkha’nti iti puṭṭho samāno ‘na kho, kassapa, natthi
dukkhaṃ , atthi kho, kassapa, dukkha’nti vadesi.
‘Tena hi bhavaṃ gotamo dukkhaṃ na jānāti na passatī’ti iti puṭṭho samāno
‘na khvāhaṃ, kassapa, dukkhaṃ na jānāmi na passāmi. Jānāmi khvāhaṃ,
kassapa, dukkhaṃ; passāmi khvāhaṃ, kassapa, dukkha’nti vadesi. Ācikkhatu
ca [ayaṃ cakāro sī. potthake natthi] me, bhante, bhagavā dukkhaṃ. Desetu ca [ayaṃ cakāro sī. potthake natthi] me, bhante, bhagavā dukkha’’nti.
‘‘‘So karoti so paṭisaṃvedayatī’ti [paṭisaṃvediyatīti (sī. pī. ka.)]
kho, kassapa, ādito sato ‘sayaṃkataṃ dukkha’nti iti vadaṃ sassataṃ etaṃ
pareti. ‘Añño karoti añño paṭisaṃvedayatī’ti kho, kassapa,
vedanābhitunnassa sato ‘paraṃkataṃ dukkha’nti iti
vadaṃ ucchedaṃ etaṃ pareti. Ete te, kassapa, ubho ante anupagamma
majjhena tathāgato dhammaṃ deseti – ‘avijjāpaccayā saṅkhārā;
saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ…pe… evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa
samudayo hoti. Avijjāya tveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho; saṅkhāranirodhā viññāṇanirodho…pe… evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hotī’’’ti.
Evaṃ vutte, acelo kassapo bhagavantaṃ etadavoca –
‘‘abhikkantaṃ, bhante, abhikkantaṃ, bhante! Seyyathāpi, bhante,
nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya…pe… cakkhumanto rūpāni dakkhantīti; evamevaṃ
bhagavatā anekapariyāyena dhammo pakāsito. Esāhaṃ, bhante, bhagavantaṃ
saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca. Labheyyāhaṃ, bhante,
bhagavato santike pabbajjaṃ, labheyyaṃ upasampada’’nti.
‘‘Yo kho, kassapa, aññatitthiyapubbo imasmiṃ
dhammavinaye ākaṅkhati pabbajjaṃ, ākaṅkhati upasampadaṃ, so cattāro māse
parivasati. Catunnaṃ māsānaṃ accayena [accayena parivuṭṭhaparivāsaṃ (syā. kaṃ. pī. ka.)] (parivutthaparivāsaṃ) āraddhacittā bhikkhū [bhikkhū ākaṅkhamānā (syā. kaṃ. pī. ka.)] pabbājenti upasampādenti bhikkhubhāvāya. Api ca mayā puggalavemattatā viditā’’ti.
‘‘Sace , bhante,
aññatitthiyapubbo imasmiṃ dhammavinaye ākaṅkhati pabbajjaṃ, ākaṅkhati
upasampadaṃ, cattāro māse parivasati. Catunnaṃ māsānaṃ accayena [accayena parivuṭṭhaparivāsaṃ (syā. kaṃ. pī. ka.)] (parivutthaparivāsaṃ) āraddhacittā bhikkhū [bhikkhū ākaṅkhamānā (syā. kaṃ. pī. ka.)] pabbājenti upasampādenti bhikkhubhāvāya. Ahaṃ cattāri vassāni parivasissāmi , catunnaṃ vassānaṃ accayena [accayena parivuṭṭhaparivāsaṃ (syā. kaṃ. pī. ka.)] (parivutthaparivāsaṃ) āraddhacittā bhikkhū pabbājentu upasampādentu bhikkhubhāvāyā’’ti.
Alattha kho acelo kassapo bhagavato santike
pabbajjaṃ, alattha upasampadaṃ. Acirūpasampanno ca panāyasmā kassapo eko
vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto nacirasseva –
yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā
anagāriyaṃ pabbajanti tadanuttaraṃ – brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva
dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsi. ‘‘Khīṇā jāti
vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’’ti
abbhaññāsi. Aññataro ca panāyasmā kassapo arahataṃ ahosīti. Sattamaṃ.
Chú giải Pāḷi:
7. Acelakassapasuttavaṇṇanā
17. Sattame acelo kassapoti liṅgena acelo niccelo, nāmena kassapo. Dūratovāti mahatā bhikkhusaṅghena parivutaṃ āgacchantaṃ dūrato eva addasa. Kiñcideva desanti kiñcideva kāraṇaṃ. Okāsanti pañhabyākaraṇassa khaṇaṃ kālaṃ. Antaragharanti
‘‘na pallatthikāya antaraghare nisīdissāmī’’ti ettha antonivesanaṃ
antaragharaṃ. ‘‘Okkhittacakkhu antaraghare gamissāmī’’ti ettha
indakhīlato paṭṭhāya antogāmo. Idhāpi ayameva adhippeto. Yadākaṅkhasīti yaṃ icchasi.
Kasmā pana bhagavā kathetukāmo yāvatatiyaṃ
paṭikkhipīti? Gāravajananatthaṃ. Diṭṭhigatikā hi khippaṃ kathiyamāne
gāravaṃ na karonti, ‘‘samaṇaṃ gotamaṃ upasaṅkamitumpi pucchitumpi
sukaraṃ, pucchitamatteyeva kathetī’’ti vacanampi na saddahanti. Dve tayo
vāre paṭikkhitte pana gāravaṃ karonti, ‘‘samaṇaṃ gotamaṃ
upasaṅkamitumpi pañhaṃ pucchitumpi dukkara’’nti
yāvatatiyaṃ yācite kathiyamānaṃ sussūsanti saddahanti. Iti bhagavā
‘‘ayaṃ sussūsissati saddahissatī’’ti yāvatatiyaṃ yācāpetvā kathesi.
Apica yathā bhisakko telaṃ vā phāṇitaṃ vā pacanto mudupākakharapākānaṃ
pākakālaṃ āgamayamāno pākakālaṃ anatikkamitvāva otāreti. Evaṃ bhagavā
sattānaṃ ñāṇaparipākaṃ āgamayamāno ‘‘ettakena kālena imassa ñāṇaṃ
paripākaṃ gamissatī’’ti ñatvāva yāvatatiyaṃ yācāpesi.
Mā hevaṃ, kassapāti, kassapa, mā evaṃ bhaṇi. Sayaṃkataṃ dukkhanti hi vattuṃ na vaṭṭati, attā nāma koci dukkhassa kārako natthīti dīpeti. Paratopi eseva nayo. Adhiccasamuppannanti akāraṇena yadicchāya uppannaṃ. Iti puṭṭho samānoti
kasmā evamāha? Evaṃ kirassa ahosi – ‘‘ayaṃ ‘sayaṃkataṃ dukkha’ntiādinā
puṭṭho ‘mā heva’nti vadati, ‘natthī’ti puṭṭho ‘atthī’ti vadati. ‘Bhavaṃ
gotamo dukkhaṃ na jānāti na passatī’ti puṭṭho ‘jānāmi khvāha’nti vadati.
Kiñci nu kho mayā virajjhitvā pucchito’’ti mūlato paṭṭhāya attano pucchameva sodhento evamāha. Ācikkhatu ca me, bhante, bhagavāti idha satthari sañjātagāravo ‘‘bhava’’nti avatvā ‘‘bhagavā’’ti vadati.
So karotītiādi, ‘‘sayaṃkataṃ dukkha’’nti laddhiyā paṭisedhanatthaṃ vuttaṃ. Ettha ca satoti
idaṃ bhummatthe sāmivacanaṃ, tasmā evamattho daṭṭhabbo – so karoti so
paṭisaṃvedayatīti kho, kassapa, ādimhiyeva evaṃ sati pacchā sayaṃkataṃ
dukkhanti ayaṃ laddhi hoti. Ettha ca dukkhanti vaṭṭadukkhaṃ adhippetaṃ. Iti vadanti etassa purimena ādisaddena anantarena ca sassatasaddena
sambandho hoti. ‘‘Dīpeti gaṇhātī’’ti ayaṃ panettha pāṭhaseso. Idañhi
vuttaṃ hoti – iti evaṃ vadanto āditova sassataṃ dīpeti, sassataṃ
gaṇhāti. Kasmā? Tassa hi taṃ dassanaṃ etaṃ pareti, kārakañca vedakañca
ekameva gaṇhantaṃ etaṃ sassataṃ upagacchatīti attho.
Añño karotītiādi pana
‘‘paraṃkataṃ dukkha’’nti laddhiyā paṭisedhanatthaṃ vuttaṃ. ‘‘Ādito
sato’’ti idaṃ pana idhāpi āharitabbaṃ. Ayañhettha attho – añño karoti
añño paṭisaṃvediyatīti kho pana, kassapa, ādimhiyeva evaṃ sati, pacchā
‘‘kārako idheva ucchijjati, tena kataṃ añño paṭisaṃvediyatī’’ti evaṃ
uppannāya ucchedadiṭṭhiyā saddhiṃ sampayuttāya vedanāya abhitunnassa viddhassa sato ‘‘paraṃkataṃ dukkha’’nti ayaṃ laddhi hotīti. Iti vadantiādi
vuttanayeneva yojetabbaṃ. Tatrāyaṃ yojanā – evañca vadanto āditova
ucchedaṃ dīpeti, ucchedaṃ gaṇhāti. Kasmā? Tassa hi taṃ dassanaṃ etaṃ
pareti, etaṃ ucchedaṃ upagacchatīti attho.
Ete teti ye
sassatucchedasaṅkhāte ubho ante (anupagamma tathāgato dhammaṃ deseti,
ete te, kassapa, ubho ante) anupagamma pahāya anallīyitvā majjhena
tathāgato dhammaṃ deseti, majjhimāya paṭipadāya ṭhito desetīti attho.
Kataraṃ dhammanti ce? Yadidaṃ avijjāpaccayā saṅkhārāti. Ettha hi
kāraṇato phalaṃ, kāraṇanirodhena cassa nirodho dīpito, na koci kārako vā
vedako vā niddiṭṭho. Ettāvatā sesapañhā paṭisedhitā honti. Ubho ante anupagammāti iminā hi tatiyapañho paṭikkhitto. Avijjāpaccayā saṅkhārāti iminā adhiccasamuppannatā ceva ajānanañca paṭikkhittanti veditabbaṃ.
Labheyyanti idaṃ so
bhagavato santike bhikkhubhāvaṃ patthayamāno āha. Atha bhagavā yonena
khandhake titthiyaparivāso (mahāva. 86) paññatto, yaṃ aññatitthiyapubbo
sāmaṇerabhūmiyaṃ ṭhito ‘‘ahaṃ, bhante, itthannāmo aññatitthiyapubbo
imasmiṃ dhammavinaye ākaṅkhāmi upasampadaṃ. Svāhaṃ, bhante, saṅghaṃ
cattāro māse parivāsaṃ yācāmī’’tiādinā nayena samādiyitvā parivasati,
taṃ sandhāya yo kho, kassapa, aññatitthiyapubbotiādimāha. Tattha pabbajjanti
vacanasiliṭṭhatāvasena vuttaṃ. Aparivasitvāyeva hi pabbajjaṃ labhati.
Upasampadatthikena pana nātikālena gāmappavesanādīni aṭṭha vattāni
pūrentena parivasitabbaṃ. Āraddhacittāti
aṭṭhavattapūraṇena tuṭṭhacittā. Ayamettha saṅkhepo, vitthārato panesa
titthiyaparivāso samantapāsādikāya vinayaṭṭhakathāya
pabbajjakkhandhakavaṇṇanāyaṃ (mahāva. aṭṭha. 86) vuttanayeneva
veditabbo.
Apica mayāti ayamettha pāṭho, aññattha pana ‘‘apica metthā’’ti. Puggalavemattatā viditāti
puggalanānattaṃ viditaṃ. ‘‘Ayaṃ puggalo parivāsāraho, ayaṃ na
parivāsāraho’’ti idaṃ mayhaṃ pākaṭanti dasseti. Tato kassapo cintesi –
‘‘aho acchariyaṃ buddhasāsanaṃ, yattha evaṃ ghaṃsitvā koṭṭetvā yuttameva
gaṇhanti, ayuttaṃ chaḍḍentī’’ti. Tato suṭṭhutaraṃ pabbajjāya
sañjātussāho sace, bhantetiādimāha.
Atha bhagavā tassa tibbacchandataṃ viditvā ‘‘na kassapo parivāsaṃ
arahatī’’ti aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi – ‘‘gaccha, bhikkhu, kassapaṃ
nahāpetvā pabbājetvā ānehī’’ti. So tathā katvā taṃ pabbājetvā bhagavato
santikaṃ agamāsi. Bhagavā gaṇe nisīditvā upasampādesi. Tena vuttaṃ alattha kho acelo kassapo bhagavato santike pabbajjaṃ, alattha upasampadanti. Acirūpasampannotiādi sesaṃ brāhmaṇasaṃyutte (saṃ. ni. 1.187) vuttamevāti. Sattamaṃ.
No comments:
Post a Comment