Tập II - Chương I(a) – Phẩm (II) ĐỒ ĂN -
Bài 18. Timbaruka (Tạp 12.21 Đại 2,86b) (S.ii, 22)
https://www.facebook.com/download/373099639522302/txt_141108_TUK2_Ch1_P2_bai%208--10.rtf
Chánh văn tiếng Việt:
Chánh văn tiếng Việt:
XVIII. Timbaruka (Tạp 12.21 Ðại 2,
86b) (S.ii,22)
1) Trú ở Sàvatthi...
2) Rồi du sĩ Timbaruka đi đến Thế Tôn; sau
khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một
bên.
3) Ngồi xuống một bên, du sĩ Timbaruka bạch
Thế Tôn:
-- Thưa Tôn giả Gotama, có phải lạc khổ tự
mình làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Timbaruka.
4) -- Thưa Tôn giả Gotama, vậy có phải lạc
khổ do người khác làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Timbaruka.
5) -- Thưa Tôn giả Gotama, vậy có phải lạc
khổ do tự mình làm ra và do người khác làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Timbaruka.
6) -- Thưa Tôn giả Gotama, lạc khổ không do
tự mình làm ra, không do người khác làm ra; vậy có phải lạc khổ do tự nhiên
sanh?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Timbaruka.
7) -- Thưa Tôn giả Gotama, vậy có phải không
có lạc khổ?
8) -- Này Timbaruka, không phải không có lạc
khổ. Này Timbaruka, có lạc khổ.
-- Nếu vậy, Tôn giả Gotama không biết, không
thấy lạc khổ.
9) -- Này Timbaruka, không phải Ta không
biết, không thấy lạc khổ. Này Timbaruka, Ta biết lạc khổ. Này Timbaruka, Ta thấy
lạc khổ.
10) -- Ðược hỏi: "Thưa Tôn giả Gotama, có
phải lạc khổ do tự mình làm ra?", Ngài trả lời: "Không phải vậy, này Timbaruka".
Ðược hỏi: " Thưa Tôn giả Gotama, có phải lạc khổ do người khác làm ra?", Ngài
trả lời: "Không phải vậy, này Timbaruka". Ðược hỏi: "Thưa Tôn giả Gotama, có
phải lạc khổ do tự mình làm ra và do người khác làm ra?", Ngài đáp: "Không phải
vậy, này Timbaruka". Ðược hỏi: "Thưa Tôn giả Gotama, không phải do tự mình làm
ra, không do người khác làm ra, có phải lạc khổ do tự nhiên sanh?", Ngài đáp:
"Không phải vậy, này Timbaruka". Ðược hỏi: "Thưa Tôn giả Gotama, có phải lạc khổ
không có?", Ngài đáp: "Này Timbaruka, không phải không có lạc khổ, này
Timbaruka, có lạc khổ". Ðược hỏi: "Như vậy Tôn giả Gotama không biết, không thấy
lạc khổ?", Ngài đáp: "Này Timbaruka, không phải Ta không biết, không thấy lạc
khổ. Này Timbaruka, Ta biết lạc khổ. Này Timbaruka, Ta thấy lạc khổ". Vậy Tôn
giả Gotama hãy nói lên cho con về lạc khổ. Vậy Tôn giả Gotama hãy thuyết cho con
về lạc khổ.
11) -- Sự cảm thọ và người cảm thọ là cùng
một người. Này Timbaruka, như Ông nói ban đầu: "Lạc khổ do tự mình làm ra", Ta
nói không phải vậy.
12) Cảm thọ và người cảm thọ là khác nhau,
này Timbaruka, như vậy đối với người bị cảm thọ, "lạc khổ do người khác làm ra",
Ta nói không phải vậy.
13) Này Timbaruka, từ bỏ hai cực đoan ấy,
Như Lai thuyết pháp theo con đường trung đạo.
Vô minh duyên hành, hành duyên thức... (như
trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Do ly tham, đoạn diệt hoàn
toàn vô minh, nên các hành diệt. Do các hành diệt nên thức diệt... (như trên)...
như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
14) Khi được nói vậy, du sĩ Timbaruka bạch
Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn... (như
trên)... Và nay con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Xin
Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời
quy ngưỡng.
Chánh văn Pāḷi:
8. Timbarukasuttaṃ
18.
Sāvatthiyaṃ viharati. Atha kho timbaruko paribbājako yena bhagavā
tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ
kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho
timbaruko paribbājako bhagavantaṃ etadavoca –
‘‘‘Kiṃ nu kho, bho gotama, sayaṃkataṃ
sukhadukkha’nti? ‘Mā hevaṃ, timbarukā’ti bhagavā avoca. ‘Kiṃ pana, bho
gotama, paraṃkataṃ sukhadukkha’nti? ‘Mā hevaṃ, timbarukā’ti bhagavā
avoca. ‘Kiṃ nu kho, bho gotama, sayaṃkatañca paraṃkatañca
sukhadukkha’nti? ‘Mā hevaṃ, timbarukā’ti bhagavā avoca. ‘Kiṃ pana, bho
gotama, asayaṃkāraṃ aparaṃkāraṃ adhiccasamuppannaṃ sukhadukkha’nti? ‘Mā
hevaṃ, timbarukā’ti bhagavā avoca . ‘Kiṃ nu kho,
bho gotama, natthi sukhadukkha’nti? ‘Na kho, timbaruka, natthi
sukhadukkhaṃ; atthi kho, timbaruka, sukhadukkha’nti. ‘Tena hi bhavaṃ
gotamo sukhadukkhaṃ na jānāti, na passatī’ti? ‘Na khvāhaṃ, timbaruka,
sukhadukkhaṃ na jānāmi, na passāmi. Jānāmi khvāhaṃ, timbaruka,
sukhadukkhaṃ; passāmi khvāhaṃ, timbaruka, sukhadukkha’’’nti.
‘‘‘Kiṃ nu kho, bho gotama, sayaṃkataṃ sukhadukkha’nti iti puṭṭho samāno ‘mā hevaṃ, timbarukā’ti vadesi. ‘Kiṃ pana, bho gotama, paraṃkataṃ sukhadukkha’nti iti puṭṭho samāno ‘mā
hevaṃ, timbarukā’ti vadesi. ‘Kiṃ nu kho, bho gotama, sayaṃkatañca
paraṃkatañca sukhadukkha’nti iti puṭṭho samāno ‘mā hevaṃ, timbarukā’ti
vadesi. ‘Kiṃ pana, bho gotama, asayaṃkāraṃ aparaṃkāraṃ
adhiccasamuppannaṃ sukhadukkha’nti iti puṭṭho samāno ‘mā hevaṃ,
timbarukā’ti vadesi. ‘Kiṃ nu kho, bho gotama, natthi sukhadukkha’nti iti
puṭṭho samāno ‘na kho, timbaruka, natthi sukhadukkhaṃ; atthi kho,
timbaruka, sukhadukkha’nti vadesi. ‘Tena hi bhavaṃ gotamo sukhadukkhaṃ
na jānāti, na passatī’ti iti puṭṭho samāno ‘na khvāhaṃ, timbaruka,
sukhadukkhaṃ na jānāmi, na passāmi. Jānāmi khvāhaṃ, timbaruka,
sukhadukkhaṃ; passāmi khvāhaṃ, timbaruka, sukhadukkha’nti vadesi.
Ācikkhatu ca me bhavaṃ gotamo sukhadukkhaṃ. Desetu ca me bhavaṃ gotamo
sukhadukkha’’nti.
‘‘‘Sā vedanā, so vedayatī’ti kho, timbaruka, ādito
sato ‘sayaṃkataṃ sukhadukkha’nti evampāhaṃ na vadāmi. ‘Aññā vedanā, añño
vedayatī’ti kho, timbaruka, vedanābhitunnassa
sato ‘paraṃkataṃ sukhadukkha’nti evampāhaṃ na vadāmi. Ete te, timbaruka,
ubho ante anupagamma majjhena tathāgato dhammaṃ deseti – ‘avijjāpaccayā
saṅkhārā; saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ…pe… evametassa kevalassa
dukkhakkhandhassa samudayo hoti. Avijjāya tveva asesavirāganirodhā
saṅkhāranirodho; saṅkhāranirodhā viññāṇanirodho…pe… evametassa kevalassa
dukkhakkhandhassa nirodho hotī’’’ti.
Evaṃ vutte, timbaruko paribbājako bhagavantaṃ
etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama…pe… esāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ
saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo
dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. Aṭṭhamaṃ.
Chú giải Pāḷi:
8. Timbarukasuttavaṇṇanā
18. Aṭṭhame sā vedanātiādi ‘‘sayaṃkataṃ sukhadukkha’’nti laddhiyā nisedhanatthaṃ vuttaṃ. Etthāpi satoti
bhummattheyeva sāmivacanaṃ. Tatrāyaṃ atthadīpanā – ‘‘sā vedanā, so
vediyatī’’ti kho, timbaruka, ādimhiyeva evaṃ sati ‘‘sayaṃkataṃ
sukhadukkha’’nti ayaṃ laddhi hoti. Evañhi sati vedanāya eva
vedanā katā hoti. Evañca vadanto imissā vedanāya pubbepi atthitaṃ
anujānāti, sassataṃ dīpeti sassataṃ gaṇhāti. Kasmā? Tassa hi taṃ
dassanaṃ etaṃ pareti, etaṃ sassataṃ upagacchatīti attho. Purimañhi
atthaṃ sandhāyevetaṃ bhagavatā vuttaṃ bhavissati, tasmā aṭṭhakathāyaṃ
taṃ yojetvāvassa attho dīpito. Evampāhaṃ na vadāmīti ahaṃ ‘‘sā vedanā, so vediyatī’’ti evampi na vadāmi. ‘‘Sayaṃkataṃ sukhadukkha’’nti evampi na vadāmīti attho.
Aññā vedanātiādi
‘‘paraṃkataṃ sukhadukkha’’nti laddhiyā paṭisedhanatthaṃ vuttaṃ. Idhāpi
ayaṃ atthayojanā –‘‘aññā vedanā añño vediyatī’’ti kho, timbaruka,
ādimhiyeva evaṃ sati pacchā yā purimapakkhe kārakavedanā, sā ucchinnā.
Tāya pana kataṃ añño vediyatīti evaṃ uppannāya ucchedadiṭṭhiyā saddhiṃ
sampayuttāya vedanāya abhitunnassa sato ‘‘paraṃkataṃ sukhadukkha’’nti
ayaṃ laddhi hoti. Evañca vadanto kārako ucchinno, aññena paṭisandhi
gahitāti ucchedaṃ dīpeti, ucchedaṃ gaṇhāti. Kasmā? Tassa hi taṃ dassanaṃ
etaṃ pareti, etaṃ ucchedaṃ upagacchatīti attho. Idhāpi hi imāni padāni
aṭṭhakathāyaṃ āharitvā yojitāneva. Imasmiṃ sutte vedanāsukhadukkhaṃ
kathitaṃ. Tañca kho vipākasukhadukkhameva vaṭṭatīti vuttaṃ. Aṭṭhamaṃ.
No comments:
Post a Comment