Tập II - Chương I(a) – Phẩm MƯỜI LỰC -
Bài 9. Sa Môn, Bà La Môn (Tạp 14,12-3, Sa-môn, Bà-la-môn, Ðại 2,99b) (S.ii,42)
Chánh văn tiếng Việt:Bài 9. Sa Môn, Bà La Môn (Tạp 14,12-3, Sa-môn, Bà-la-môn, Ðại 2,99b) (S.ii,42)
IX. Sa Môn, Bà La Môn (Tạp 14,12-3,
Sa-môn, Bà-la-môn, Ðại 2,99b) (S.ii,42)
1)...Trú ở Sàvatthi.
2-12) -- Ở đây, này các Tỷ-kheo, những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào không hiểu rõ già, chết, không hiểu rõ già, chết tập
khởi, không hiểu rõ già, chết đoạn diệt, không hiểu rõ con đường đưa đến già,
chết đoạn diệt, không hiểu rõ sanh...(như trên)...
Hữu...thủ...ái...thọ...xúc...sáu xứ...danh sắc...thức... không hiểu rõ hành,
không hiểu rõ hành tập khởi, không hiểu rõ hành đoạn diệt, không hiểu rõ con
đường đưa đến hành đoạn diệt.
13) Những Sa-môn hay Bà-la-môn ấy không được
chấp nhận là Sa-môn giữa các hàng Sa-môn, hay Bà-la-môn giữa các hàng Bà-la-môn.
Và những Tôn giả ấy cũng không có thể ngay trong đời sống hiện tại, tự mình
chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú mục đích Sa-môn hạnh hay mục đích
Bà-la-môn hạnh.
14-24) Và này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào hiểu rõ già, chết, hiểu rõ già, chết tập khởi, hiểu rõ già, chết
đoạn diệt, hiểu rõ con đường đưa đến già, chết đoạn diệt, hiểu rõ sanh... hữu...
thủ... ái... thọ... xúc... sáu xứ... danh sắc... thức... hiểu rõ hành, hiểu rõ
hành tập khởi, hiểu rõ hành đoạn diệt, hiểu rõ con đường đưa đến hành đoạn
diệt.
25) Những Sa-môn hay Bà-la-môn ấy được chấp
nhận là Sa-môn giữa các hàng Sa-môn, hay Bà-la-môn giữa các hàng Bà-la-môn. Và
những Tôn giả ấy ngay trong đời sống hiện tại, tự mình chứng ngộ với thắng trí,
chứng đạt và an trú mục đích Sa-môn hạnh hay mục đích Bà-la-môn hạnh.
Chánh văn Pāḷi:
9. Samaṇabrāhmaṇasuttaṃ
29. Sāvatthiyaṃ viharati…pe… ‘‘tatra kho…pe… ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā
vā jarāmaraṇaṃ na parijānanti, jarāmaraṇasamudayaṃ na parijānanti,
jarāmaraṇanirodhaṃ na parijānanti, jarāmaraṇanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ na
parijānanti, jātiṃ na parijānanti…pe… bhavaṃ… upādānaṃ… taṇhaṃ…
vedanaṃ… phassaṃ… saḷāyatanaṃ… nāmarūpaṃ… viññāṇaṃ… saṅkhāre…
saṅkhārasamudayaṃ… saṅkhāranirodhaṃ… saṅkhāranirodhagāminiṃ paṭipadaṃ na
parijānanti. Na mete, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā samaṇesu vā
samaṇasammatā brāhmaṇesu vā brāhmaṇasammatā. Na ca panete āyasmanto sāmaññatthaṃ vā brahmaññatthaṃ vā diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharanti’’.
‘‘Ye ca kho keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā
jarāmaraṇaṃ parijānanti, jarāmaraṇasamudayaṃ parijānanti,
jarāmaraṇanirodhaṃ parijānanti, jarāmaraṇanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ
parijānanti, jātiṃ parijānanti…pe… bhavaṃ… upādānaṃ… taṇhaṃ… vedanaṃ…
phassaṃ… saḷāyatanaṃ… nāmarūpaṃ… viññāṇaṃ… saṅkhāre parijānanti ,
saṅkhārasamudayaṃ parijānanti, saṅkhāranirodhaṃ parijānanti,
saṅkhāranirodhagāminiṃ paṭipadaṃ parijānanti. Te kho me, bhikkhave,
samaṇā vā brāhmaṇā vā samaṇesu ceva samaṇasammatā brāhmaṇesu ca
brāhmaṇasammatā. Te ca panāyasmanto sāmaññatthañca brahmaññatthañca
diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharantī’’ti.
Navamaṃ.
No comments:
Post a Comment