Tập II - Chương I(a) – Phẩm (II) ĐỒ ĂN -
Bài 12. Moliya Phagguna (Tạp 15,10 Đại 2,102) (S.ii, 12)
Bài 12. Moliya Phagguna (Tạp 15,10 Đại 2,102) (S.ii, 12)
Chánh văn tiếng Việt:
XII. Moliya Phagguna (Tạp
15,10. Ðại 2,102) (S.ii,12).
1)...Trú Tại Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại đồ ăn này
khiến cho các loại sanh vật hay các loại chúng sanh được tồn tại hay khiến cho
các loại sắp sanh thành được thọ sanh. Thế nào là bốn? Một là đoàn thực hoặc thô
hoặc tế, hai là xúc thực, ba là tư niệm thực, bốn là thức thực. Này các Tỷ-kheo,
bốn loại đồ ăn này khiến cho các loại sanh vật hay khiến cho các loại chúng sanh
được tồn tại hay khiến cho các loại sắp sanh thành được thọ sanh.
3) Khi được nói vậy, Tôn giả Moliya-Phagguna
bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, ai ăn thức thực?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi ấy không thích hợp. Ta không nói:
"Có ai ăn". Nếu Ta nói: "Có kẻ ăn", thời câu hỏi: "Có ai ăn" là câu hỏi thích
hợp. Nhưng Ta không nói như vậy. Và vì Ta không nói như vậy, nếu có ai hỏi Ta:
"Bạch Thế Tôn, thức thực là cho ai?", thời câu hỏi ấy thích hợp. Ở đây, câu trả
lời thích hợp là như sau: "Thức thực là duyên cho sự sanh thành, cho sự tái sanh
trong tương lai. Khi cái ấy hiện hữu, có mặt thời sáu xứ có mặt. Do duyên sáu
xứ, xúc có mặt".
4) -- Bạch Thế Tôn, ai cảm xúc?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi ấy không thích hợp. Ta không nói:
"Có kẻ cảm xúc". Nếu Ta nói: "Có kẻ cảm xúc", thời câu hỏi: "Ai cảm xúc" là câu
hỏi thích hợp. Nhưng Ta không nói như vậy. Và vì Ta không nói như vậy, nếu có ai
hỏi Ta: "Bạch Thế Tôn, do duyên gì, xúc sanh khởi?", thời câu hỏi ấy thích hợp.
Ở đây câu trả lời thích hợp là như sau: "Do duyên sáu xứ, xúc sanh khởi. Do
duyên xúc, thọ sanh khởi".
5) -- Bạch Thế Tôn, ai cảm thọ?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi ấy không thích hợp. Ta không nói:
"Có người cảm thọ". Nếu ta có nói: "Có người cảm thọ", thời câu hỏi: "Ai cảm
thọ?" là câu hỏi thích hợp. Nhưng Ta không nói như vậy. Và vì Ta không nói như
vậy, nếu có ai hỏi Ta: "Bạch Thế Tôn, do duyên gì, thọ sanh khởi?", thời câu hỏi
ấy thích hợp. Ở đây câu trả lời thích hợp là như sau: "Do duyên xúc, thọ sanh
khởi. Do duyên thọ, ái sanh khởi".
6) -- Bạch Thế Tôn, ai khát ái?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi ấy không thích hợp. Ta không nói:
"Có kẻ khát ái". Nếu Ta nói: "Có kẻ khát ái", thời câu hỏi: "Ai khát ái" là câu
hỏi thích hợp. Nhưng Ta không nói như vậy. Và vì Ta không nói như vậy, nếu có ai
hỏi Ta: "Bạch Thế Tôn, do duyên gì, ái sanh khởi", thời câu hỏi ấy thích hợp. Ở
đây, câu trả lời thích hợp là như sau: "Do duyên thọ, ái sanh khởi. Do duyên ái,
thủ sanh khởi".
7) --Bạch Thế Tôn, ai chấp thủ?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi ấy không thích hợp. Ta không nói:
"Có kẻ chấp thủ". Nếu Ta nói: "Có kẻ chấp thủ", thời câu hỏi: "Ai chấp thủ" là
câu hỏi thích hợp. Nhưng Ta không nói như vậy. Và vì Ta không nói như vậy, nếu
có ai hỏi Ta: "Bạch Thế Tôn, do duyên gì, thủ sanh khởi", thời câu hỏi ấy thích
hợp. Ở đây, câu trả lời thích hợp là như sau: "Do duyên ái, thủ sanh khởi. Do
duyên thủ, hữu sanh khởi". Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
8) Nhưng này Phagguna, do ly tham, đoạn diệt
một cách hoàn toàn sáu xứ nên xúc diệt. Do xúc diệt, nên thọ diệt. Do thọ diệt
nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên
sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là
toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
Chánh văn Pāḷi:
2. Moḷiyaphaggunasuttaṃ
12. Sāvatthiyaṃ viharati…pe… ‘‘cattārome ,
bhikkhave, āhārā bhūtānaṃ vā sattānaṃ ṭhitiyā sambhavesīnaṃ vā
anuggahāya. Katame cattāro? Kabaḷīkāro āhāro – oḷāriko vā sukhumo vā,
phasso dutiyo, manosañcetanā tatiyā, viññāṇaṃ catutthaṃ. Ime kho,
bhikkhave, cattāro āhārā bhūtānaṃ vā sattānaṃ ṭhitiyā sambhavesīnaṃ vā
anuggahāyā’’ti.
Evaṃ vutte, āyasmā moḷiyaphagguno bhagavantaṃ
etadavoca – ‘‘ko nu kho, bhante, viññāṇāhāraṃ āhāretī’’ti? ‘‘No kallo
pañho’’ti bhagavā avoca – ‘‘‘āhāretī’ti ahaṃ na vadāmi. ‘Āhāretī’ti
cāhaṃ vadeyyaṃ, tatrassa kallo pañho – ‘ko nu kho, bhante, āhāretī’ti ?
Evaṃ cāhaṃ na vadāmi. Evaṃ maṃ avadantaṃ yo evaṃ puccheyya – ‘kissa nu
kho, bhante, viññāṇāhāro’ti, esa kallo pañho. Tatra kallaṃ veyyākaraṇaṃ –
‘viññāṇāhāro āyatiṃ punabbhavābhinibbattiyā paccayo, tasmiṃ bhūte sati
saḷāyatanaṃ, saḷāyatanapaccayā phasso’’’ti.
‘‘Ko nu kho, bhante, phusatī’’ti? ‘‘No kallo
pañho’’ti bhagavā avoca – ‘‘‘phusatī’ti ahaṃ na vadāmi. ‘Phusatī’ti
cāhaṃ vadeyyaṃ, tatrassa kallo pañho – ‘ko nu kho, bhante, phusatī’ti?
Evaṃ cāhaṃ na vadāmi. Evaṃ maṃ avadantaṃ yo evaṃ puccheyya – ‘kiṃpaccayā
nu kho, bhante, phasso’ti, esa kallo pañho. Tatra kallaṃ veyyākaraṇaṃ –
‘saḷāyatanapaccayā phasso, phassapaccayā vedanā’’’ti.
‘‘Ko nu kho, bhante, vedayatī’’ti [vediyatīti (sī. pī. ka.)]?
‘‘No kallo pañho’’ti bhagavā avoca – ‘‘‘vedayatī’ti ahaṃ na vadāmi.
‘Vedayatī’ti cāhaṃ vadeyyaṃ, tatrassa kallo pañho – ‘ko nu kho, bhante,
vedayatī’ti? Evaṃ cāhaṃ na vadāmi. Evaṃ maṃ avadantaṃ yo evaṃ puccheyya –
‘kiṃpaccayā nu kho, bhante, vedanā’ti, esa kallo pañho. Tatra kallaṃ
veyyākaraṇaṃ – ‘phassapaccayā vedanā, vedanāpaccayā taṇhā’’’ti.
‘‘Ko nu kho, bhante, tasatī’’ti [taṇhīyatīti (sī. syā. kaṃ.)]? ‘‘No kallo pañho’’ti bhagavā avoca – ‘‘‘tasatī’ti ahaṃ na vadāmi . ‘Tasatī’ti cāhaṃ
vadeyyaṃ, tatrassa kallo pañho – ‘ko nu kho, bhante, tasatī’ti? Evaṃ
cāhaṃ na vadāmi. Evaṃ maṃ avadantaṃ yo evaṃ puccheyya – ‘kiṃpaccayā nu
kho, bhante, taṇhā’ti, esa kallo pañho. Tatra kallaṃ veyyākaraṇaṃ –
‘vedanāpaccayā taṇhā, taṇhāpaccayā upādāna’’’nti.
‘‘Ko nu kho, bhante, upādiyatī’’ti? ‘‘No kallo
pañho’’ti bhagavā avoca – ‘‘‘upādiyatī’ti ahaṃ na vadāmi. ‘Upādiyatī’ti
cāhaṃ vadeyyaṃ, tatrassa kallo pañho – ‘ko nu kho, bhante, upādiyatī’ti?
Evaṃ cāhaṃ na vadāmi. Evaṃ maṃ avadantaṃ yo evaṃ puccheyya –
‘kiṃpaccayā nu kho, bhante, upādāna’nti, esa kallo pañho. Tatra kallaṃ
veyyākaraṇaṃ – ‘taṇhāpaccayā upādānaṃ; upādānapaccayā bhavo’ti…pe… evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti.
‘‘Channaṃ tveva, phagguna, phassāyatanānaṃ
asesavirāganirodhā phassanirodho; phassanirodhā vedanānirodho;
vedanānirodhā taṇhānirodho; taṇhānirodhā upādānanirodho; upādānanirodhā
bhavanirodho; bhavanirodhā jātinirodho; jātinirodhā jarāmaraṇaṃ
sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā nirujjhanti. Evametassa kevalassa
dukkhakkhandhassa nirodho hotī’’ti. Dutiyaṃ.
Chú giải Pāḷi:
2. Moḷiyaphaggunasuttavaṇṇanā
12. Dutiye sambhavesīnaṃ vā anuggahāyāti
imasmiṃyeva ṭhāne bhagavā desanaṃ niṭṭhāpesi. Kasmā? Diṭṭhigatikassa
nisinnattā. Tassañhi parisati moḷiyaphagguno nāma bhikkhu diṭṭhigatiko
nisinno. Atha satthā cintesi – ‘‘ayaṃ uṭṭhahitvā maṃ pañhaṃ pucchissati,
athassāhaṃ vissajjessāmī’’ti pucchāya okāsadānatthaṃ desanaṃ
niṭṭhāpesi. Moḷiyaphaggunoti moḷīti cūḷā vuccati. Yathāha –
‘‘Chetvāna moḷiṃ varagandhavāsitaṃ
Vehāyasaṃ ukkhipi sakyapuṅgavo;
Ratanacaṅkoṭavarena vāsavo,
Sahassanetto sirasā paṭiggahī’’ti.
Sā tassa gihikāle mahantā ahosi. Tenassa ‘‘moḷiyaphagguno’’ti saṅkhā udapādi. Pabbajitampi naṃ teneva nāmena sañjānanti. Etadavocāti desanānusandhiṃ ghaṭento etaṃ ‘‘ko nu kho, bhante, viññāṇāhāraṃ āhāretī’’ti vacanaṃ avoca. Tassattho – bhante, ko nāma so, yo etaṃ viññāṇāhāraṃ khādati vā bhuñjati vāti?
Kasmā panāyaṃ itare tayo āhāre apucchitvā imameva
pucchatīti? Jānāmīti laddhiyā. So hi mahante piṇḍe katvāva
kabaḷīkārāhāraṃ bhuñjante passati, tenassa taṃ jānāmīti laddhi.
Tittiravaṭṭakamorakukkuṭādayo pana mātusamphassena yāpente disvā ‘‘ete
phassāhārena yāpentī’’ti tassa laddhi. Kacchapā pana attano utusamaye
mahāsamuddato nikkhamitvā samuddatīre vālikantare aṇḍāni ṭhapetvā
vālikāya paṭicchādetvā mahāsamuddameva otaranti. Tāni
mātuanussaraṇavasena na pūtīni honti. Tāni manosañcetanāhārena yāpentīti
tassa laddhi. Kiñcāpi therassa ayaṃ laddhi, na pana etāya laddhiyā imaṃ
pañhaṃ pucchati . Diṭṭhigatiko hi
ummattakasadiso. Yathā ummattako pacchiṃ gahetvā antaravīthiṃ otiṇṇo
gomayampi pāsāṇampi gūthampi khajjakhaṇḍampi taṃ taṃ manāpampi
amanāpampi gahetvā pacchiyaṃ pakkhipati. Evameva diṭṭhigatiko yuttampi
ayuttampi pucchati. So ‘‘kasmā imaṃ pucchasī’’ti na niggahetabbo,
pucchitapucchitaṭṭhāne pana gahaṇameva nisedhetabbaṃ. Teneva naṃ bhagavā ‘‘kasmā evaṃ pucchasī’’ti avatvā gahitagāhameva tassa mocetuṃ no kallo pañhotiādimāha.
Tattha no kalloti ayutto. Āhāretīti ahaṃ na vadāmīti ahaṃ koci satto vā puggalo vā āhāretīti na vadāmi. Āhāretīti cāhaṃ vadeyyanti yadi ahaṃ āhāretīti vadeyyaṃ. Tatrassa kallo pañhoti tasmiṃ mayā evaṃ vutte ayaṃ pañho yutto bhaveyya. Kissa nu kho, bhante, viññāṇāhāroti, bhante, ayaṃ viññāṇāhāro katamassa dhammassa paccayoti attho. Tatra kallaṃ veyyākaraṇanti tasmiṃ evaṃ pucchite pañhe imaṃ veyyākaraṇaṃ yuttaṃ ‘‘viññāṇāhāro āyatiṃ punabbhavābhinibbattiyā paccayo’’ti. Ettha ca viññāṇāhāroti paṭisandhicittaṃ. Āyatiṃ punabbhavābhinibbattīti teneva viññāṇena sahuppannanāmarūpaṃ. Tasmiṃ bhūte sati saḷāyatananti tasmiṃ punabbhavābhinibbattisaṅkhāte nāmarūpe jāte sati saḷāyatanaṃ hotīti attho.
Saḷāyatanapaccayāphassoti
idhāpi bhagavā uttari pañhassa okāsaṃ dento desanaṃ niṭṭhāpesi.
Diṭṭhigatiko hi navapucchaṃ uppādetuṃ na sakkoti, niddiṭṭhaṃ
niddiṭṭhaṃyeva pana gaṇhitvā pucchati, tenassa bhagavā okāsaṃ adāsi.
Attho panassa sabbapadesu vuttanayeneva gahetabbo. ‘‘Ko nu kho, bhante,
bhavatī’’ti kasmā na pucchati? Diṭṭhigatikassa hi satto nāma bhūto
nibbattoyevāti laddhi, tasmā attano laddhiviruddhaṃ idanti na pucchati.
Apica idappaccayā idaṃ idappaccayā idanti bahūsu ṭhānesu kathitattā
saññattiṃ upagato, tenāpi na pucchati. Satthāpi ‘‘imassa bahuṃ
pucchantassāpi titti natthi, tucchapucchameva pucchatī’’ti ito paṭṭhāya
desanaṃ ekābaddhaṃ katvā desesi. Channaṃ tvevāti
yato paṭṭhāya desanāruḷhaṃ, tameva gahetvā desanaṃ vivaṭṭento evamāha.
Imasmiṃ pana sutte viññāṇanāmarūpānaṃ antare eko sandhi, vedanātaṇhānaṃ
antare eko, bhavajātīnaṃ antare ekoti. Dutiyaṃ.
No comments:
Post a Comment