Tập II - Chương I(b) – Phẩm (IV) Kalāra-VỊ SÁT ĐẾ LỴ
Bài 5. Do Duyên Vô Minh (Tạp 14.17-8 Vô Minh Tăng, Ðại 2,100a)(S.ii,60)
Bài 5. Do Duyên Vô Minh (Tạp 14.17-8 Vô Minh Tăng, Ðại 2,100a)(S.ii,60)
Bài giảng:
http://youtu.be/yPLTBBZV5SY
http://www.mediafire.com/listen/ja5ysofeu1aj73p/141202_TUK2_Chi_P4_Bai6--10.mp3
Chánh văn tiếng Việt:
V. Do Duyên Vô Minh (Tạp 14.17-8 Vô Minh Tăng, Ðại 2, 100a)
(S.ii,60)
1) ... Trú ở Sàvatthi...
2) -- Này các Tỷ-kheo, do duyên vô minh có hành; do duyên hành có
thức... như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
3) -- Bạch Thế Tôn, thế nào là già chết? Và già chết này là của
ai?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi không thích hợp. Này Tỷ-kheo, Ông có thể nói: "Thế nào
là già chết, và già chết này là của ai?", hay này Tỷ-kheo, Ông có thể nói: "Già
chết là khác và người già và chết là khác", hai câu hỏi này nghĩa là một, chỉ có
văn sai khác. Này Tỷ-kheo, chỗ nào có (tà) kiến: "Sinh mạng và thân thể là một",
chỗ ấy không có Phạm hạnh trú. Này Tỷ-kheo, chỗ nào có (tà) kiến: "Sinh mạng và
thân thể là khác", chỗ ấy không có Phạm hạnh trú. Này Tỷ-kheo, từ bỏ hai cực
đoan này, Như Lai thuyết pháp theo trung đạo và nói: "Do duyên sanh nên có già
chết".
4) -- Bạch Thế Tôn, thế nào là sanh và sanh này là của ai?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi không thích hợp. Này Tỷ-kheo, Ông có thể nói: "Thế nào
là sanh, và sanh này là của ai?", hay này Tỷ-kheo, Ông có thể nói: "Sanh là khác
và người sanh là khác", hai câu hỏi này có nghĩa là một, chỉ có văn sai khác.
Này Tỷ-kheo, chỗ nào có tà kiến: "Sinh mạng và thân thể là một", chỗ ấy không có
Phạm hạnh trú. Này Tỷ-kheo, chỗ nào có tà kiến: "Sinh mạng và thân thể là khác",
chỗ ấy không có Phạm hạnh trú. Này Tỷ-kheo, từ bỏ hai cực đoan này, Như Lai
thuyết pháp theo trung đạo và nói: "Do duyên hữu nên có sanh".
5) -- Bạch Thế Tôn, thế nào là hữu và hữu này của ai?
Thế Tôn nói:
-- Câu hỏi không thích hợp. Này Tỷ-kheo, Ông có thể hỏi: "Thế nào
là hữu và hữu này của ai?", hay Ông có thể nói: "Hữu khác và người có hữu này
khác", hai câu hỏi này là một, chỉ có văn sai khác. Này Tỷ-kheo, chỗ nào có tà
kiến: "Sinh mạng và thân thể là một", chỗ ấy không có Phạm hạnh trú. Này
Tỷ-kheo, chỗ nào có tà kiến: "Sinh mạng và thân thể là khác", chỗ ấy không có
Phạm hạnh trú. Này Tỷ-kheo, từ bỏ hai cực đoan này, Như Lai thuyết pháp theo
trung đạo và nói: "Do duyên thủ nên có hữu".
6) -- Bạch Thế Tôn, thế nào là thủ và thủ này của ai?... (như
trên)... "Do duyên ái nên có thủ".
7)... "Do duyên thọ nên có ái"
8)... "Do duyên xúc nên có thọ".
9)... "Do duyên sáu xứ nên có xúc".
10)... "Do duyên danh sắc nên có sáu xứ".
11)... "Do duyên thức nên có danh sắc".
12)... "Do duyên hành nên có thức".
13) -- Bạch Thế Tôn, thế nào là các hành, và các hành này là của
ai?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi không thích hợp. Này Tỷ-kheo, Ông có thể nói: "Thế nào
là các hành và các hành này là của ai?", hay này Tỷ-kheo, Ông có thể nói: "Các
hành là khác và người có các hành này là khác", hai câu hỏi này là một, chỉ có
văn sai khác. Này Tỷ-kheo, chỗ nào có (tà) kiến: "Sinh mạng và thân thể là một",
chỗ ấy không có Phạm hạnh trú. Này Tỷ-kheo, chỗ nào có (tà) kiến: "Sinh mạng và
thân thể là khác", chỗ ấy không có Phạm hạnh trú. Này Tỷ-kheo, từ bỏ hai cực
đoan này, Như Lai thuyết pháp theo trung đạo và nói: "Do duyên vô minh nên có
các hành". Này Tỷ-kheo, do sự ly tham, đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn, các
tạp luận (hý luận), dị thuyết, xuyên tạc liên hệ ấy hay bất cứ loại nào ... sẽ
được đoạn tận.
14) Như câu hỏi: "Thế nào là già chết và già chết này là của ai?".
Hay "Già chết là khác và người có già chết là khác?" hay "Sinh mạng và thân thể
này là một", hay "Sinh mạng và thân thể là khác", tất cả đều được đoạn tận, cắt
đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể hiện hữu, khiến cho
tương lai không thể sanh khởi. Này Tỷ-kheo, do sự ly tham, đoạn diệt vô minh một
cách hoàn toàn, các tạp luận, dị thuyết, xuyên tạc liên hệ ấy hay bất cứ loại
nào ... sẽ được đoạn tận.
15) Như câu hỏi: "Thế nào là sanh và sanh này là của ai?". Hay
"Sanh là khác và người có sanh là khác", hay "Sinh mạng và thân thể là một", hay
"Sinh mạng và thân thể là khác", tất cả đều được đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ làm
cho như thân cây ta-la, làm cho không thể hiện hữu, khiến trong tương lai không
thể sanh khởi. Này các Tỷ-kheo, do sự ly tham, đoạn diệt vô minh một cách hoàn
toàn, các tạp luận, dị thuyết, xuyên tạc liên hệ ấy hay bất cứ loại nào ... sẽ
được đoạn tận.
16) Thế nào là hữu...
17) Thế nào là thủ...
18) Thế nào là ái...
19) Thế nào là thọ...
20) Thế nào là xúc...
21) Thế nào là sáu xứ...
22) Thế nào là danh sắc...
23) Thế nào là thức... Này các Tỷ-kheo, do sự ly tham, đoạn diệt
vô minh một cách hoàn toàn, các tạp luận, dị thuyết, xuyên tạc liên hệ ấy hay
bất cứ loại nào ... sẽ được đoạn tận.
24) Như câu hỏi: "Thế nào là các hành và các hành này là của ai?".
Hay "Các hành là khác và người có các hành này là khác", hay "Sinh mạng và thân
thể là một", hay "Sinh mạng và thân thể là khác"; tất cả đều được đoạn tận cắt
đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể hiện hữu, khiến cho
trong tương lai không thể sanh khởi.
5. Avijjāpaccayasuttaṃ
35.
Sāvatthiyaṃ viharati…pe… ‘‘avijjāpaccayā, bhikkhave, saṅkhārā;
saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ…pe… evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa
samudayo hotī’’ti. Evaṃ vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca –
‘‘‘katamaṃ nu kho, bhante, jarāmaraṇaṃ, kassa ca panidaṃ jarāmaraṇa’nti?
‘No kallo pañho’ti bhagavā avoca, ‘katamaṃ jarāmaraṇaṃ ,
kassa ca panidaṃ jarāmaraṇa’nti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ‘aññaṃ
jarāmaraṇaṃ aññassa ca panidaṃ jarāmaraṇa’nti, iti vā, bhikkhu, yo
vadeyya, ubhayametaṃ ekatthaṃ byañjanameva nānaṃ. Taṃ jīvaṃ taṃ
sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Aññaṃ
jīvaṃ aññaṃ sarīranti vā, bhikkhu , diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Ete te, bhikkhu, ubho ante anupagamma majjhena tathāgato dhammaṃ deseti – ‘jātipaccayā jarāmaraṇa’’’nti.
‘‘Katamā nu kho, bhante, jāti, kassa ca panāyaṃ
jātī’’ti? ‘‘No kallo pañho’’ti bhagavā avoca, ‘‘‘katamā jāti, kassa ca
panāyaṃ jātī’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya,
‘aññā jāti aññassa ca panāyaṃ jātī’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya,
ubhayametaṃ ekatthaṃ byañjanameva nānaṃ. Taṃ jīvaṃ taṃ sarīranti vā,
bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Aññaṃ jīvaṃ aññaṃ
sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Ete te,
bhikkhu, ubho ante anupagamma majjhena tathāgato dhammaṃ deseti –
‘bhavapaccayā jātī’’’ti.
‘‘Katamo nu kho, bhante, bhavo, kassa ca panāyaṃ
bhavo’’ti? ‘‘No kallo pañho’’ti bhagavā avoca, ‘‘‘katamo bhavo, kassa ca
panāyaṃ bhavo’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ‘añño bhavo aññassa ca
panāyaṃ bhavo’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ubhayametaṃ ekatthaṃ
byañjanameva nānaṃ. Taṃ jīvaṃ taṃ sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati
brahmacariyavāso na hoti; aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīranti vā, bhikkhu,
diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Ete te, bhikkhu, ubho ante
anupagamma majjhena tathāgato dhammaṃ deseti – ‘upādānapaccayā
bhavo’ti…pe… ‘taṇhāpaccayā upādānanti… vedanāpaccayā taṇhāti… phassapaccayā vedanāti… saḷāyatanapaccayā phassoti… nāmarūpapaccayā saḷāyatananti… viññāṇapaccayā nāmarūpanti… saṅkhārapaccayā viññāṇa’’’nti.
‘‘Katame nu kho, bhante, saṅkhārā, kassa ca panime
saṅkhārā’’ti? ‘‘No kallo pañho’’ti bhagavā avoca, ‘‘‘katame saṅkhārā
kassa ca panime saṅkhārā’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ‘aññe saṅkhārā
aññassa ca panime saṅkhārā’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ubhayametaṃ
ekatthaṃ byañjanameva nānaṃ. Taṃ jīvaṃ taṃ sarīranti vā, bhikkhu,
diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti; aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīranti vā,
bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Ete te, bhikkhu, ubho
ante anupagamma majjhena tathāgato dhammaṃ deseti – ‘avijjāpaccayā
saṅkhārā’’’ti.
‘‘Avijjāya tveva, bhikkhu,
asesavirāganirodhā yānissa tāni visūkāyikāni visevitāni vipphanditāni
kānici kānici. ‘Katamaṃ jarāmaraṇaṃ, kassa ca panidaṃ jarāmaraṇaṃ’ iti
vā, ‘aññaṃ jarāmaraṇaṃ, aññassa ca panidaṃ jarāmaraṇaṃ’ iti vā, ‘taṃ
jīvaṃ taṃ sarīraṃ’ iti vā, ‘aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ’ iti vā.
Sabbānissa tāni pahīnāni bhavanti ucchinnamūlāni tālāvatthukatāni
anabhāvaṅkatāni āyatiṃ anuppādadhammāni.
‘‘Avijjāya tveva, bhikkhu, asesavirāganirodhā yānissa tāni visūkāyikāni visevitāni vipphanditāni kānici kānici. ‘Katamā jāti, kassa
ca panāyaṃ jāti’ iti vā, ‘aññā jāti, aññassa ca panāyaṃ jāti’ iti vā,
‘taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ’ iti vā, ‘aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ’ iti vā.
Sabbānissa tāni pahīnāni bhavanti ucchinnamūlāni tālāvatthukatāni
anabhāvaṅkatāni āyatiṃ anuppādadhammāni.
‘‘Avijjāya tveva, bhikkhu, asesavirāganirodhā
yānissa tāni visūkāyikāni visevitāni vipphanditāni kānici kānici. Katamo
bhavo…pe… katamaṃ upādānaṃ… katamā taṇhā… katamā vedanā… katamo phasso… katamaṃ saḷāyatanaṃ… katamaṃ nāmarūpaṃ… katamaṃ viññāṇaṃ…pe….
‘‘Avijjāya tveva, bhikkhu, asesavirāganirodhā
yānissa tāni visūkāyikāni visevitāni vipphanditāni kānici kānici.
‘Katame saṅkhārā, kassa ca panime saṅkhārā’ iti vā, ‘aññe saṅkhārā,
aññassa ca panime saṅkhārā’ iti vā, ‘taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ’ iti vā,
‘aññaṃ jīvaṃ, aññaṃ sarīraṃ’ iti vā. Sabbānissa tāni pahīnāni bhavanti
ucchinnamūlāni tālāvatthukatāni anabhāvaṅkatāni āyatiṃ
anuppādadhammānī’’ti. Pañcamaṃ.
Chú giải Pāḷi:
5. Avijjāpaccayasuttavaṇṇanā
35. Pañcame samudayo hotīti
satthā idheva desanaṃ osāpesi. Kiṃkāraṇāti? Diṭṭhigatikassa
okāsadānatthaṃ. Tassañhi parisati upārambhacitto diṭṭhigatiko atthi, so
pañhaṃ pucchissati, athassāhaṃ vissajjessāmīti tassa okāsadānatthaṃ
desanaṃ osāpesi. No kallo pañhoti ayutto pañho.
Duppañho esoti attho. Nanu ca ‘‘katamaṃ nu kho, bhante,
jarāmaraṇa’’nti? Idaṃ supucchitanti. Kiñcāpi supucchitaṃ, yathā pana
satasahassagghanike suvaṇṇathāle vaḍḍhitassa subhojanassa matthake
āmalakamattepi gūthapiṇḍe ṭhapite sabbaṃ bhojanaṃ dubbhojanaṃ hoti
chaḍḍetabbaṃ, evameva ‘‘kassa ca panidaṃ jarāmaraṇa’’nti? Iminā
sattūpaladdhivādapadena gūthapiṇḍena taṃ bhojanaṃ dubbhojanaṃ viya
ayampi sabbo duppañhova jātoti.
Brahmacariyavāsoti ariyamaggavāso. Taṃ jīvaṃ taṃ sarīranti yassa hi ayaṃ diṭṭhi, so ‘‘jīve ucchijjamāne sarīraṃ ucchijjati, sarīre ucchijjante jīvitaṃ ucchijjatī’’ti gaṇhāti. Evaṃ gaṇhato sā diṭṭhi ‘‘satto ucchijjatī’’ti gahitattā ucchedadiṭṭhi nāma hoti .
Sace pana saṅkhārāva uppajjanti ceva nirujjhanti cāti gaṇheyya,
sāsanāvacarā sammādiṭṭhi nāma bhaveyya. Ariyamaggo ca nāmeso vaṭṭaṃ
nirodhento vaṭṭaṃ samucchindanto uppajjati ,
tadeva taṃ vaṭṭaṃ ucchedadiṭṭhiyā gahitākārassa sambhave sati vināva
maggabhāvanāya nirujjhatīti maggabhāvanā niratthakā hoti. Tena vuttaṃ
‘‘brahmacariyavāso na hotī’’ti.
Dutiyanaye aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīranti
yassa ayaṃ diṭṭhi, so ‘‘sarīraṃ idheva ucchijjati, na jīvitaṃ, jīvitaṃ
pana pañjarato sakuṇo viya yathāsukhaṃ gacchatī’’ti gaṇhāti. Evaṃ
gaṇhato sā diṭṭhi ‘‘imasmā lokā jīvitaṃ paralokaṃ gata’’nti gahitattā
sassatadiṭṭhi nāma hoti. Ayañca ariyamaggo tebhūmakavaṭṭaṃ vivaṭṭento
uppajjati, so ekasaṅkhārepi nicce dhuve sassate sati uppannopi vaṭṭaṃ
vivaṭṭetuṃ na sakkotīti maggabhāvanā niratthakā hoti. Tena vuttaṃ
‘‘aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīranti vā bhikkhu diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso
na hotī’’ti.
Visūkāyikānītiādi sabbaṃ micchādiṭṭhivevacanameva. Sā hi sammādiṭṭhiyā vinivijjhanaṭṭhena visūkamiva attānaṃ āvaraṇato visūkāyikaṃ, sammādiṭṭhiṃ ananuvattitvā tassā virodhena pavattanato visevitaṃ, kadāci ucchedassa kadāci sassatassa gahaṇato virūpaṃ phanditaṃ vipphanditanti vuccati. Tālāvatthukatānīti
tālavatthu viya katāni, puna aviruhaṇaṭṭhena matthakacchinnatālo viya
samūlaṃ tālaṃ uddharitvā tassa patiṭṭhitaṭṭhānaṃ viya ca katānīti attho.
Anabhāvaṃkatānīti anuabhāvaṃ katānīti. Pañcamaṃ.
No comments:
Post a Comment