Tập II - Chương I(c) – Phẩm (VII) ĐẠI PHẨM THỨ BẢY -
Bài 1. Hạng Người Ít Nghe (Tạp 12.7 Vô Văn, Đại 2, 81c)
Bài giảng:Bài 1. Hạng Người Ít Nghe (Tạp 12.7 Vô Văn, Đại 2, 81c)
http://www.mediafire.com/listen/ko8zna1nklt033u/141122_TUK2_Ch1_P3-NgoaiDao.mp3
https://www.youtube.com/watch?v=vldt8DAWTck
Chánh văn tiếng Việt:
I. Hạng Người Ít Nghe (Tạp 12.7 Vô Văn, Ðại 2, 81c)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông
Anàthapindika.
2) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu có thể nhàm chán, viễn
ly, giải thoát thân do bốn đại tạo thành này.
3) Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì họ thấy được cái thân do bốn đại
tạo thành này được tăng, được giảm, được thủ, được xả.
Do vậy, ở đây kẻ vô văn phàm phu có thể nhàm chán, viễn ly, giải
thoát.
4) Và này các Tỷ-kheo, cái gọi là tâm, là ý, là thức, ở đây, kẻ vô
văn phàm phu không đủ để có thể nhàm chán, không đủ để có thể viễn ly, không đủ
để có thể giải thoát.
5) Vì sao? Ðã lâu ngày, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu đắm
trước, xem là của tôi, chấp thủ: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là
tự ngã của tôi".
Do vậy, ở đây, kẻ vô văn phàm phu không đủ để có thể nhàm chán,
không đủ để có thể viễn ly, không đủ để có thể giải thoát.
6) Này các Tỷ-kheo, thật tốt hơn cho kẻ vô văn phàm phu đi đến với
thân do bốn đại tạo thành này xem như là tự ngã, hơn là đối với tâm.
7) Vì sao? Này các Tỷ-kheo, thân do bốn đại tạo thành này được
thấy đứng vững một năm, đứng vững hai năm, đứng vững ba năm, đứng vững bốn năm,
đứng vững năm năm, đứng vững mười năm, đứng vững hai mươi năm, đứng vững ba mươi
năm, đứng vững bốn mươi năm, đứng vững năm mươi năm, đứng vững một trăm năm,
đứng vững nhiều hơn nữa. Còn cái gọi là tâm này, là ý này, là thức này, này các
Tỷ-kheo, cả đêm và ngày, khởi lên là khác, diệt đi là khác.
8) Này các Tỷ-kheo, ví như một con khỉ trong khi đi lại trong rừng
núi, nắm lấy một nhành cây, bỏ nhành cây ấy xuống, nó nắm giữ một nhành khác.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cái gọi là tâm, là ý, là thức này cả đêm và ngày,
khởi lên là khác, diệt đi là khác.
9) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử khéo chơn chánh
tư duy định lý duyên khởi: "Do cái này có mặt, cái kia có mặt. Do cái này sanh,
cái kia sanh. Do cái này không có mặt, cái kia không có mặt. Do cái này diệt,
cái kia diệt". Ví như do duyên vô minh, các hành sanh khởi. Do duyên hành, thức
sanh khởi... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
10) Do đoạn diệt, ly tham vô minh một cách hoàn toàn nên hành
diệt. Do hành diệt nên thức diệt... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này
đoạn diệt.
11) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử, nhàm chán
đối với sắc, nhàm chán đối với thọ, nhàm chán đối với tưởng, nhàm chán đối với
các hành, nhàm chán đối với thức. Do nhàm chán nên viễn ly; do viễn ly nên giải
thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết được: "Ta giải thoát", vị ấy biết
rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lui
trạng thái này nữa".
Chánh văn Pāḷi:
7. Mahāvaggo
1. Assutavāsuttaṃ
61. Evaṃ
me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane
anāthapiṇḍikassa ārāme…pe… ‘‘assutavā, bhikkhave, puthujjano imasmiṃ
cātumahābhūtikasmiṃ kāyasmiṃ nibbindeyyapi virajjeyyapi vimucceyyapi.
Taṃ kissa hetu? [cātummahābhūtikasmiṃ (sī. syā. kaṃ.)] Dissati, bhikkhave [dissati hi bhikkhave (sī. syā. kaṃ.)], imassa
cātumahābhūtikassa kāyassa ācayopi apacayopi ādānampi nikkhepanampi.
Tasmā tatrāssutavā puthujjano nibbindeyyapi virajjeyyapi vimucceyyapi’’.
‘‘Yañca kho etaṃ, bhikkhave, vuccati cittaṃ itipi,
mano itipi, viññāṇaṃ itipi, tatrāssutavā puthujjano nālaṃ nibbindituṃ
nālaṃ virajjituṃ nālaṃ vimuccituṃ. Taṃ kissa hetu? Dīgharattañhetaṃ,
bhikkhave, assutavato puthujjanassa ajjhositaṃ mamāyitaṃ parāmaṭṭhaṃ –
‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti. Tasmā tatrāssutavā puthujjano
nālaṃ nibbindituṃ nālaṃ virajjituṃ nālaṃ vimuccituṃ.
‘‘Varaṃ , bhikkhave, assutavā
puthujjano imaṃ cātumahābhūtikaṃ kāyaṃ attato upagaccheyya, na tveva
cittaṃ. Taṃ kissa hetu? Dissatāyaṃ, bhikkhave, cātumahābhūtiko kāyo
ekampi vassaṃ tiṭṭhamāno dvepi vassāni tiṭṭhamāno tīṇipi vassāni
tiṭṭhamāno cattāripi vassāni tiṭṭhamāno pañcapi vassāni tiṭṭhamāno
dasapi vassāni tiṭṭhamāno vīsatipi vassāni tiṭṭhamāno tiṃsampi vassāni
tiṭṭhamāno cattārīsampi vassāni tiṭṭhamāno paññāsampi vassāni tiṭṭhamāno vassasatampi tiṭṭhamāno, bhiyyopi tiṭṭhamāno.
‘‘Yañca kho etaṃ, bhikkhave, vuccati cittaṃ itipi,
mano itipi, viññāṇaṃ itipi, taṃ rattiyā ca divasassa ca aññadeva
uppajjati aññaṃ nirujjhati. Seyyathāpi, bhikkhave, makkaṭo araññe pavane
caramāno sākhaṃ gaṇhati, taṃ muñcitvā aññaṃ gaṇhati, taṃ muñcitvā aññaṃ
gaṇhati; evameva kho, bhikkhave, yamidaṃ vuccati cittaṃ itipi, mano
itipi, viññāṇaṃ itipi, taṃ rattiyā ca divasassa ca aññadeva uppajjati
aññaṃ nirujjhati.
‘‘Tatra, bhikkhave, sutavā ariyasāvako
paṭiccasamuppādaṃyeva sādhukaṃ yoniso manasi karoti – ‘iti imasmiṃ sati
idaṃ hoti, imassuppādā idaṃ uppajjati; imasmiṃ asati idaṃ na hoti,
imassa nirodhā idaṃ nirujjhati – yadidaṃ avijjāpaccayā saṅkhārā;
saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ…pe… evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa
samudayo hoti. Avijjāya tveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho;
saṅkhāranirodhā viññāṇanirodho…pe… evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hotī’’’ti.
‘‘Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako rūpasmimpi nibbindati, vedanāyapi nibbindati, saññāyapi nibbindati, saṅkhāresupi
nibbindati, viññāṇasmimpi nibbindati; nibbindaṃ virajjati, virāgā
vimuccati, vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti. ‘Khīṇā jāti, vusitaṃ
brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī’’ti.
Paṭhamaṃ.
Chú giải Pāḷi:
7. Mahāvaggo
1. Assutavāsuttavaṇṇanā
61. Mahāvaggassa paṭhame assutavāti khandhadhātuāyatanapaccayākārasatipaṭṭhānādīsu uggahaparipucchāvinicchayarahito. Puthujjanoti
puthūnaṃ nānappakārānaṃ kilesādīnaṃ jananādikāraṇehi puthujjano.
Vuttañhetaṃ – ‘‘puthu kilese janentīti puthujjanā’’ti sabbaṃ
vitthāretabbaṃ. Apica puthūnaṃ gaṇanapathamatītānaṃ
ariyadhammaparammukhānaṃ nīcadhammasamācārānaṃ janānaṃ antogadhattāpi
puthujjano, puthu vā ayaṃ visuṃyeva saṅkhaṃ gato, visaṃsaṭṭho
sīlasutādiguṇayuttehi ariyehi janoti puthujjano. Evametehi ‘‘assutavā puthujjano’’ti dvīhipi padehi ye te –
Andho puthujjano eko, kalyāṇeko puthujjano’’ti. (mahāni. 94); –
Dve puthujjanā vuttā, tesu andhaputhujjano gahito. Imasminti paccuppannapaccakkhakāyaṃ dasseti. Cātumahābhūtikasminti catumahābhūtakāye catumahābhūtehi nibbatte catumahābhūtamayeti attho. Nibbindeyyāti ukkaṇṭheyya. Virajjeyyāti na rajjeyya. Vimucceyyāti muccitukāmo bhaveyya. Ācayoti vuḍḍhi. Apacayoti parihāni. Ādānanti nibbatti. Nikkhepananti bhedo.
Tasmāti yasmā ime cattāro vuḍḍhihāninibbattibhedā paññāyanti, tasmā taṃkāraṇāti attho. Iti bhagavā cātumahābhūtike kāye rūpaṃ
pariggahetuṃ ayuttarūpaṃ katvā arūpaṃ pariggahetuṃ yuttarūpaṃ karoti.
Kasmā? Tesañhi bhikkhūnaṃ rūpasmiṃ gāho balavā adhimatto, tena tesaṃ
rūpe gāhassa pariggahetabbarūpataṃ dassetvā nikkaḍḍhanto arūpe
patiṭṭhāpanatthaṃ evamāha.
Cittantiādi sabbaṃ manāyatanasseva nāmaṃ. Tañhi cittavatthutāya cittagocaratāya sampayuttadhammacittatāya ca cittaṃ, mananaṭṭhena mano, vijānanaṭṭhena viññāṇanti vuccati. Nālanti na samattho. Ajjhositanti taṇhāya gilitvā pariniṭṭhapetvā gahitaṃ. Mamāyitanti taṇhāmamattena mama idanti gahitaṃ. Parāmaṭṭhanti diṭṭhiyā parāmasitvā gahitaṃ. Etaṃ mamāti taṇhāgāho, tena aṭṭhasatataṇhāvicaritaṃ gahitaṃ hoti. Esohamasmīti mānagāho, tena nava mānā gahitā honti. Eso me attāti diṭṭhigāho, tena dvāsaṭṭhi diṭṭhiyo gahitā honti. Tasmāti yasmā evaṃ dīgharattaṃ gahitaṃ, tasmā nibbindituṃ na samattho.
Varaṃ, bhikkhaveti idaṃ
kasmā āha? Paṭhamañhi tena rūpaṃ pariggahetuṃ ayuttarūpaṃ kataṃ, arūpaṃ
yuttarūpaṃ, atha ‘‘tesaṃ bhikkhūnaṃ rūpato gāho nikkhamitvā arūpaṃ
gato’’ti ñatvā taṃ nikkaḍḍhituṃ imaṃ desanaṃ ārabhi. Tattha attato upagaccheyyāti attāti gaṇheyya. Bhiyyopīti
vassasatato uddhampi. Kasmā pana bhagavā evamāha? Kiṃ atirekavassasataṃ
tiṭṭhamānaṃ rūpaṃ nāma atthi? Nanu paṭhamavaye pavattaṃ rūpaṃ
majjhimavayaṃ na pāpuṇāti, majjhimavaye pavattaṃ pacchimavayaṃ,
purebhatte pavattaṃ pacchābhattaṃ, pacchābhatte pavattaṃ paṭhamayāmaṃ,
paṭhamayāme pavattaṃ majjhimayāmaṃ, majjhimayāme
pavattaṃ pacchimayāmaṃ na pāpuṇāti? Tathā gamane pavattaṃ ṭhānaṃ, ṭhāne
pavattaṃ nisajjaṃ, nisajjāya pavattaṃ sayanaṃ na pāpuṇāti.
Ekairiyāpathepi pādassa uddharaṇe pavattaṃ atiharaṇaṃ, atiharaṇe
pavattaṃ vītiharaṇaṃ, vītiharaṇe pavattaṃ vossajjanaṃ, vossajjane
pavattaṃ sannikkhepanaṃ, sannikkhepane pavattaṃ sannirujjhanaṃ na
pāpuṇāti, tattha tattheva odhi odhi pabbaṃ pabbaṃ hutvā tattakapāle
pakkhittatilā viya paṭapaṭāyantā saṅkhārā bhijjantīti? Saccametaṃ. Yathā
pana padīpassa jalato jātā taṃ taṃ vaṭṭippadesaṃ anatikkamitvā tattha
tattheva bhijjati, atha ca pana paveṇisambandhavasena sabbarattiṃ jalito
padīpoti vuccati, evamidhāpi paveṇivasena ayampi kāyo evaṃ ciraṭṭhitiko viya katvā dassito.
Rattiyā ca divasassa cāti rattimhi ca divase ca. Bhummatthe hetaṃ sāmivacanaṃ. Aññadeva uppajjati, aññaṃ nirujjhatīti
yaṃ rattiṃ uppajjati ca nirujjhati ca, tato aññadeva divā uppajjati ca
nirujjhati cāti attho. Aññaṃ uppajjati, anuppannameva aññaṃ nirujjhatīti
evaṃ pana attho na gahetabbo. ‘‘Rattiyā ca divasassa cā’’ti idaṃ
purimapaveṇito parittakaṃ paveṇiṃ gahetvā paveṇivaseneva vuttaṃ,
ekarattiṃ pana ekadivasaṃ vā ekameva cittaṃ ṭhātuṃ samatthaṃ nāma
natthi. Ekasmiñhi accharākkhaṇe anekāni cittakoṭisatasahassāni
uppajjanti. Vuttampi cetaṃ milindapañhe –
‘‘Vāhasataṃ kho, mahārāja ,
vīhīnaṃ, aḍḍhacūḷañca vāhā, vīhisattambaṇāni, dve ca tumbā,
ekaccharākkhaṇe pavattassa cittassa ettakā vīhī lakkhaṃ ṭhapīyamānā
parikkhayaṃ pariyādānaṃ gaccheyyu’’nti.
Pavaneti mahāvane. Taṃ muñcitvā aññaṃ gaṇhāti, taṃ muñcitvā aññaṃ gaṇhātīti
iminā na so gaṇhitabbasākhaṃ alabhitvā bhūmiṃ otarati. Atha kho tasmiṃ
mahāvane vicaranto taṃ taṃ sākhaṃ gaṇhantoyeva caratīti ayamattho
dassito.
Evameva khoti ettha idaṃ
opammasaṃsandanaṃ – araññamahāvanaṃ viya hi ārammaṇavanaṃ veditabbaṃ.
Tasmiṃ vane vicaraṇamakkaṭo viya ārammaṇavane uppajjanakacittaṃ.
Sākhāgahaṇaṃ viya ārammaṇe lubbhanaṃ. Yathā so
araññe vicaranto makkaṭo taṃ taṃ sākhaṃ pahāya taṃ taṃ sākhaṃ gaṇhāti,
evamidaṃ ārammaṇavane vicarantaṃ cittampi kadāci rūpārammaṇaṃ gahetvā
uppajjati, kadāci saddādīsu aññataraṃ, kadāci atītaṃ, kadāci anāgataṃ vā
paccuppannaṃ vā, tathā kadāci ajjhattaṃ, kadāci bāhiraṃ. Yathā ca so
araññe vicaranto makkaṭo sākhaṃ alabhitvā oruyha bhūmiyaṃ nisinnoti na
vattabbo, ekaṃ pana paṇṇasākhaṃ gahetvāva
nisīdati, evameva ārammaṇavane vicarantaṃ cittampi ekaṃ olubbhārammaṇaṃ
alabhitvā uppannanti na vattabbaṃ, ekajātiyaṃ pana ārammaṇaṃ gahetvāva
uppajjatīti veditabbaṃ. Ettāvatā ca pana bhagavatā rūpato nīharitvā
arūpe gāho patiṭṭhāpito, arūpato nīharitvā rūpe.
Idāni taṃ ubhayato nikkaḍḍhitukāmo tatra, bhikkhave, sutavā ariyasāvakoti
desanaṃ ārabhi. Ayaṃ panattho āsīvisadaṭṭhūpamāya dīpetabbo – eko kira
puriso āsīvisena daṭṭho, athassa visaṃ harissāmīti cheko bhisakko
āgantvā vamanaṃ kāretvā heṭṭhā garuḷo, upari nāgoti mantaṃ parivattetvā
visaṃ upari āropesi. So yāva akkhippadesā āruḷhabhāvaṃ ñatvā ‘‘ito paraṃ
abhiruhituṃ na dassāmi, daṭṭhaṭṭhāneyeva ṭhapessāmī’’ti
upari garuḷo, heṭṭhā nāgoti mantaṃ parivattetvā kaṇṇe dhumetvā
daṇḍakena paharitvā visaṃ otāretvā daṭṭhaṭṭhāneyeva ṭhapesi. Tatrassa
ṭhitabhāvaṃ ñatvā agadalepena visaṃ nimmathetvā nhāpetvā ‘‘sukhī
hohī’’ti vatvā yenakāmaṃ pakkāmi.
Tattha āsīvisena daṭṭhassa kāye visapatiṭṭhānaṃ viya
imesaṃ bhikkhūnaṃ rūpe adhimattagāhakālo, cheko bhisakko viya
tathāgato, mantaṃ parivattetvā upari visassa āropitakālo viya
tathāgatena tesaṃ bhikkhūnaṃ rūpato gāhaṃ nīharitvā arūpe
patiṭṭhāpitakālo, yāva akkhippadesā āruḷhavisassa upari abhiruhituṃ
adatvā puna mantabalena otāretvā daṭṭhaṭṭhāneyeva ṭhapanaṃ viya satthārā
tesaṃ bhikkhūnaṃ arūpato gāhaṃ nīharitvā rūpe patiṭṭhāpitakālo.
Daṭṭhaṭṭhāne ṭhitassa visassa agadalepena nimmathanaṃ viya ubhayato
gāhaṃ nīharaṇatthāya imissā desanāya āraddhakālo veditabbo. Tattha nibbindaṃ virajjatīti iminā maggo kathito, virāgā vimuccatīti phalaṃ, vimuttasmintiādinā paccavekkhaṇā. Paṭhamaṃ.
No comments:
Post a Comment