Tập II - Chương I(b) – Phẩm (VI) CÂY
Bài 1. Tư Lường (Tạp 12.10, Đại 2, 82c)(S.ii,80)
Bài 1. Tư Lường (Tạp 12.10, Đại 2, 82c)(S.ii,80)
Bài giảng:
https://www.youtube.com/watch?v=z0PvhqHEAWA
http://www.mediafire.com/listen/unyhdd4rg9y2kp2/141211_TUK2_Ch1_P5-Bai9,10_P6-Bai1,2.mp3
Chánh văn tiếng Việt:
I. Tư Lường (Tạp 12.10, Ðại 2,82c) (S.ii,80)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại
vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).
2) Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". "Thưa vâng,
bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
3) Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo tư lường, phải tư lường như thế
nào để chơn chánh diệt khổ một cách trọn vẹn?
-- Bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm
lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm điểm tựa. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn nói lên
ý nghĩa của lời nói này. Sau khi nghe Thế Tôn thuyết giảng, các Tỷ-kheo sẽ thọ
trì.
4) -- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ
nói.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
5) -- Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đang tư lường, tư lường
như sau: "Sự đau khổ nhiều loại và đa dạng này khởi lên trên đời như già và
chết; sự đau khổ này lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì
làm hiện hữu? Do cái gì có mặt, già chết hiện hữu? Do cái gì không có mặt, già
chết không hiện hữu?"
6) Tư lường như vậy, vị ấy biết như sau: "Sự đau khổ nhiều loại và
đa dạng này khởi lên trên đời như già và chết, sự đau khổ này lấy sanh làm nhân,
lấy sanh làm tập khởi, lấy sanh làm tác sanh, lấy sanh làm hiện hữu. Do sanh có
mặt, già chết hiện hữu. Do sanh không có mặt, già chết không hiện hữu".
7) Và vị ấy biết già chết, biết già chết tập khởi, biết già chết
đoạn diệt, và vị ấy biết con đường thích ứng đưa đến già chết đoạn diệt. Do thực
hành như vậy, vị ấy trở thành vị Tùy pháp hành.
8) Này các Tỷ-kheo, vị ấy được gọi là vị Tỷ-kheo đã thực hành một
cách trọn vẹn để chơn chánh đoạn tận khổ đau và đoạn diệt già chết.
9) Tư lường thêm nữa, vị ấy tư lường như sau: "Còn hữu này, do cái
gì làm nhân? Còn thủ này, do cái gì làm nhân? Còn ái này, do cái gì làm nhân?
Còn thọ này, do cái gì làm nhân? Còn xúc này... Còn sáu xứ này... Còn danh sắc
này... Còn thức này... Còn các hành này, do cái gì làm nhân, cái gì tập khởi,
cái gì tác sanh, cái gì làm hiện hữu? Do cái gì có mặt, các hành hiện hữu? Do
cái gì không có mặt các hành không hiện hữu?"
10) Tư lường như vậy, vị ấy biết như sau: "Các hành lấy vô minh
làm nhân, lấy vô minh làm tập khởi, lấy vô minh làm tác sanh, lấy vô minh làm
hiện hữu. Do vô minh có mặt, các hành hiện hữu. Do vô minh không có mặt, các
hành không hiện hữu".
11) Và vị ấy biết các hành, biết các hành tập khởi, biết các hành
đoạn diệt, và vị ấy biết con đường thích ứng đưa đến các hành đoạn diệt. Do thực
hành như vậy, vị ấy trở thành vị Tùy pháp hành. Này các Tỷ-kheo, vị ấy được gọi
là vị Tỷ-kheo đã thực hành một cách trọn vẹn để chơn chánh đoạn tận khổ đau và
đoạn diệt các hành.
12) Này các Tỷ-kheo, nếu người nào bị vô minh chi phối, dự tính
làm phước hành, thức (của người ấy) đi đến phước. Nếu người ấy dự tính làm phi
phước hành, thức (của người ấy) đi đến phi phước. Nếu người ấy dự tính làm bất
động hành, thức (của người ấy) đi đến bất động.
13) Này các Tỷ-kheo, khi nào vị Tỷ-kheo đoạn tận vô minh, minh
được sanh khởi. Vị ấy do vô minh đoạn tận, minh sanh khởi, không dự tính làm
phước hành, không dự tính làm phi phước hành, không dự tính làm bất động
hành.
14) Không có dự tính, không có dụng ý, vị ấy không chấp thủ một sự
gì ở đời. Không chấp thủ, vị ấy không sợ hãi. Không sợ hãi, vị ấy hoàn toàn tịch
tịnh. Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã
làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
15) Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, vị ấy biết lạc thọ ấy vô thường,
vị ấy biết không nên tham đắm, vị ấy biết không nên hoan hỷ. Nếu vị ấy cảm giác
khổ thọ, vị ấy biết khổ thọ vô thường, vị ấy biết không nên tham đắm, vị ấy biết
không nên hoan hỷ. Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy biết thọ ấy vô
thường, vị ấy biết không nên tham đắm, vị ấy biết không nên hoan hỷ.
16) Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, thọ ấy được cảm giác với niệm
thoát ly. Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, thọ ấy được cảm giác với niệm thoát ly.
Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, thọ ấy được cảm giác với niệm thoát ly
(visannutto).
17) Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân, vị ấy biết:
"Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân". Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận
cùng của sinh mạng, vị ấy biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh
mạng". Vị ấy biết: "Sau khi thân hoại mạng chung, ở đây tất cả những cảm thọ
không làm cho có hỷ lạc, sẽ trở thành vắng lặng, cái thân được bỏ qua một
bên".
18) Này các Tỷ-kheo, ví như một người từ trong lò nung của người
thợ gốm lấy ra một cái ghè nóng và đặt trên một khoảng đất bằng phẳng để sức
nóng ở đấy được nguội dần, và các miếng sành vụn được gạt bỏ một bên. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, khi cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân, vị ấy biết: "Ta cảm
giác một cảm thọ tận cùng của thân". Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng của
sinh mạng, vị ấy biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng". Vị ấy
biết: "Sau khi thân hoại mạng chung, ở đây tất cả những cảm thọ không làm cho có
hỷ lạc, sẽ trở thành vắng lặng, cái thân được bỏ qua một bên".
19) Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ
các lậu hoặc có dự tính làm các phước hành, hay có dự tính làm các phi phước
hành, hay có dự tính làm các bất động hành?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
20) -- Hay nếu các hành không có mặt một cách trọn vẹn, do các
hành đoạn diệt, thời thức có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
21) -- Hay nếu thức không có mặt một cách trọn vẹn, do thức đoạn
diệt, thời danh sắc có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
22) -- Hay nếu danh sắc không có mặt một cách trọn vẹn, do danh
sắc đoạn diệt, thời sáu xứ có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
23) -- Hay nếu sáu xứ không có mặt một cách trọn vẹn, do sáu xứ
đoạn diệt, thời xúc có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
24) -- Hay nếu xúc không có mặt một cách trọn vẹn, do xúc đoạn
diệt, thời thọ có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
25) -- Hay nếu thọ không có mặt một cách trọn vẹn, do thọ đoạn
diệt, thời ái có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
26) -- Hay nếu ái không có mặt một cách trọn vẹn, do ái đoạn diệt,
thời thủ có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
27) -- Hay nếu thủ không có mặt một cách trọn vẹn, do thủ đoạn
diệt, thời hữu có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
28) -- Hay nếu hữu không có mặt một cách trọn vẹn, do hữu đoạn
diệt, thời sanh có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
29) -- Hay nếu sanh không có mặt một cách trọn vẹn, do sanh đoạn
diệt, thời già chết có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
30) -- Lành thay, lành thay, này các Tỷ-kheo! Phải là như vậy, này
các Tỷ-kheo! Không thể khác vậy. Hãy tin ở Ta, này các Tỷ-kheo! Hãy quyết định,
chớ có nghi ngờ, chớ có phân vân! Ðây là khổ được đoạn tận.
Chánh văn Pāḷi:
6. Dukkhavaggo
1. Parivīmaṃsanasuttaṃ
51. Evaṃ
me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane
anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi –
‘‘bhikkhavo’’ti. ‘‘Bhadante’’ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
Bhagavā etadavoca –
‘‘Kittāvatā nu kho, bhikkhave, bhikkhū
parivīmaṃsamāno parivīmaṃseyya sabbaso sammā dukkhakkhayāyā’’ti?
‘‘Bhagavaṃmūlakā no, bhante, dhammā bhagavaṃnettikā bhagavaṃpaṭisaraṇā .
Sādhu vata, bhante, bhagavantaṃyeva paṭibhātu etassa bhāsitassa attho.
Bhagavato sutvā bhikkhū dhāressantī’’ti. ‘‘Tena hi, bhikkhave, suṇātha,
sādhukaṃ manasi karotha, bhāsissāmī’’ti. ‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho te
bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca –
‘‘Idha, bhikkhave, bhikkhu parivīmaṃsamāno
parivīmaṃsati – ‘yaṃ kho idaṃ anekavidhaṃ nānappakārakaṃ dukkhaṃ loke
uppajjati jarāmaraṇaṃ; idaṃ nu kho dukkhaṃ kiṃnidānaṃ kiṃsamudayaṃ
kiṃjātikaṃ kiṃpabhavaṃ? Kismiṃ sati jarāmaraṇaṃ hoti, kismiṃ asati
jarāmaraṇaṃ na hotī’ti? So parivīmaṃsamāno evaṃ pajānāti – ‘yaṃ kho idaṃ
anekavidhaṃ nānappakārakaṃ dukkhaṃ loke uppajjati
jarāmaraṇaṃ, idaṃ kho dukkhaṃ jātinidānaṃ jātisamudayaṃ jātijātikaṃ
jātippabhavaṃ. Jātiyā sati jarāmaraṇaṃ hoti, jātiyā asati jarāmaraṇaṃ na
hotī’’’ti.
‘‘So jarāmaraṇañca pajānāti, jarāmaraṇasamudayañca pajānāti, jarāmaraṇanirodhañca
pajānāti, yā ca jarāmaraṇanirodhasāruppagāminī paṭipadā tañca pajānāti,
tathā paṭipanno ca hoti anudhammacārī; ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu
sabbaso sammā dukkhakkhayāya paṭipanno jarāmaraṇanirodhāya.
‘‘Athāparaṃ parivīmaṃsamāno parivīmaṃsati – ‘jāti
panāyaṃ kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā, kismiṃ sati jāti
hoti, kismiṃ asati jāti na hotī’ti? So parivīmaṃsamāno evaṃ pajānāti –
‘jāti bhavanidānā bhavasamudayā bhavajātikā bhavappabhavā; bhave sati
jāti hoti, bhave asati jāti na hotī’’’ti.
‘‘So jātiñca pajānāti, jātisamudayañca pajānāti,
jātinirodhañca pajānāti, yā ca jātinirodhasāruppagāminī paṭipadā tañca
pajānāti, tathā paṭipanno ca hoti anudhammacārī; ayaṃ vuccati,
bhikkhave, bhikkhu sabbaso sammā dukkhakkhayāya paṭipanno jātinirodhāya.
‘‘Athāparaṃ parivīmaṃsamāno parivīmaṃsati – ‘bhavo
panāyaṃ kiṃnidāno…pe… upādānaṃ panidaṃ kiṃnidānaṃ… taṇhā panāyaṃ
kiṃnidānā… vedanā… phasso… saḷāyatanaṃ panidaṃ kiṃnidānaṃ… nāmarūpaṃ
panidaṃ… viññāṇaṃ panidaṃ… saṅkhārā panime kiṃnidānā kiṃsamudayā
kiṃjātikā kiṃpabhavā; kismiṃ sati saṅkhārā honti, kismiṃ asati saṅkhārā
na hontī’ti? So parivīmaṃsamāno evaṃ pajānāti – ‘saṅkhārā avijjānidānā avijjāsamudayā avijjājātikā avijjāpabhavā; avijjāya sati saṅkhārā honti, avijjāya asati saṅkhārā na hontī’’’ti.
‘‘So saṅkhāre ca pajānāti, saṅkhārasamudayañca
pajānāti, saṅkhāranirodhañca pajānāti, yā ca
saṅkhāranirodhasāruppagāminī paṭipadā tañca pajānāti, tathā paṭipanno ca
hoti anudhammacārī ; ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu sabbaso sammā dukkhakkhayāya paṭipanno saṅkhāranirodhāya.
‘‘Avijjāgato yaṃ, bhikkhave,
purisapuggalo puññaṃ ce saṅkhāraṃ abhisaṅkharoti, puññūpagaṃ hoti
viññāṇaṃ. Apuññaṃ ce saṅkhāraṃ abhisaṅkharoti, apuññūpagaṃ hoti
viññāṇaṃ. Āneñjaṃ ce saṅkhāraṃ abhisaṅkharoti āneñjūpagaṃ hoti viññāṇaṃ.
Yato kho, bhikkhave, bhikkhuno avijjā pahīnā hoti vijjā uppannā, so
avijjāvirāgā vijjuppādā neva puññābhisaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti na
apuññābhisaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti na āneñjābhisaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti.
Anabhisaṅkharonto anabhisañcetayanto na kiñci loke upādiyati; anupādiyaṃ
na paritassati, aparitassaṃ paccattaññeva parinibbāyati. ‘Khīṇā jāti,
vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāti.
‘‘So sukhaṃ ce vedanaṃ vedayati, sā aniccāti
pajānāti, anajjhositāti pajānāti, anabhinanditāti pajānāti. Dukkhaṃ ce
vedanaṃ vedayati, sā aniccāti pajānāti, anajjhositāti pajānāti,
anabhinanditāti pajānāti. Adukkhamasukhaṃ ce vedanaṃ vedayati, sā
aniccāti pajānāti, anajjhositāti pajānāti,
anabhinanditāti pajānāti. So sukhaṃ ce vedanaṃ vedayati, visaṃyutto naṃ
vedayati. Dukkhaṃ ce vedanaṃ vedayati, visaṃyutto naṃ [taṃ vedanaṃ (sī. pī.), vedanaṃ (ka.)] vedayati. Adukkhamasukhaṃ ce vedanaṃ vedayati, visaṃyutto naṃ vedayati.
‘‘So kāyapariyantikaṃ vedanaṃ
vedayamāno kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti,
jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vedayamāno jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ
vedayāmīti pajānāti. Kāyassa bhedā uddhaṃ jīvitapariyādānā idheva
sabbavedayitāni anabhinanditāni sītībhavissanti, sarīrāni avasissantīti
pajānāti.
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, puriso kumbhakārapākā uṇhaṃ kumbhaṃ uddharitvā same bhūmibhāge paṭisisseyya [paṭiviseyya (sī.), patiṭṭhapeyya (syā. kaṃ. pī.), paṭiseveyya (ṭīkā)].
Tatra yāyaṃ usmā sā tattheva vūpasameyya, kapallāni avasisseyyuṃ.
Evameva kho, bhikkhave, bhikkhu kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayamāno
kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti, jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ
vedayamāno jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti. Kāyassa bhedā uddhaṃ jīvitapariyādānā idheva sabbavedayitāni anabhinanditāni sītībhavissanti, sarīrāni avasissantīti pajānāti.
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu kho khīṇāsavo
bhikkhu puññābhisaṅkhāraṃ vā abhisaṅkhareyya apuññābhisaṅkhāraṃ vā
abhisaṅkhareyya āneñjābhisaṅkhāraṃ vā abhisaṅkhareyyā’’ti? ‘‘No hetaṃ,
bhante’’. ‘‘Sabbaso vā pana saṅkhāresu asati,
saṅkhāranirodhā api nu kho viññāṇaṃ paññāyethā’’ti? ‘‘No hetaṃ,
bhante’’. ‘‘Sabbaso vā pana viññāṇe asati, viññāṇanirodhā api nu kho
nāmarūpaṃ paññāyethā’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Sabbaso vā pana
nāmarūpe asati, nāmarūpanirodhā api nu kho saḷāyatanaṃ paññāyethā’’ti?
‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Sabbaso vā pana saḷāyatane asati,
saḷāyatananirodhā api nu kho phasso paññāyethā’’ti? ‘‘No hetaṃ,
bhante’’. ‘‘Sabbaso vā pana phasse asati,
phassanirodhā api nu kho vedanā paññāyethā’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’.
‘‘Sabbaso vā pana vedanāya asati, vedanānirodhā api nu kho taṇhā
paññāyethā’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Sabbaso vā pana taṇhāya asati,
taṇhānirodhā api nu kho upādānaṃ paññāyethā’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’.
‘‘Sabbaso vā pana upādāne asati, upādānanirodhā api nu kho bhavo
paññāyethā’’ti. ‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Sabbaso vā pana bhave asati,
bhavanirodhā api nu kho jāti paññāyethā’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’.
‘‘Sabbaso vā pana jātiyā asati, jātinirodhā api nu kho jarāmaraṇaṃ
paññāyethā’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’.
‘‘Sādhu sādhu, bhikkhave, evametaṃ, bhikkhave, netaṃ
aññathā. Saddahatha me taṃ, bhikkhave, adhimuccatha, nikkaṅkhā ettha
hotha nibbicikicchā. Esevanto dukkhassā’’ti. Paṭhamaṃ.
Chú giải Pāḷi:
6. Dukkhavaggo
1. Parivīmaṃsanasuttavaṇṇanā
51. Dukkhavaggassa paṭhame parivīmaṃsamānoti upaparikkhamāno. Jarāmaraṇanti
kasmā jarāmaraṇaṃ ekameva ‘‘anekavidhaṃ nānappakāraka’’nti vatvā
gahitanti ce? Tasmiṃ gahite sabbadukkhassa gahitattā. Yathā hi cūḷāya
gahite purise so puriso gahitova hoti, evaṃ
jarāmaraṇe gahite sabbadukkhaṃ gahitameva hoti. Tasmā ‘‘yaṃ kho idaṃ
anekavidhaṃ nānappakārakaṃ dukkhaṃ loke uppajjatī’’ti nhatvā ṭhitaṃ
purisaṃ viya sabbadukkhaṃ dassetvā taṃ cūḷāya gaṇhanto viya jarāmaraṇaṃ
gaṇhi.
Jarāmaraṇanirodhasāruppagāminīti jarāmaraṇanirodhassa sāruppabhāvena nikkilesatāya parisuddhatāya sadisāva hutvā gāminīti attho. Tathā paṭipanno ca hotīti yathā taṃ paṭipannoti vuccati, evaṃ paṭipanno hoti. Anudhammacārīti nibbānadhammaṃ anugataṃ paṭipattidhammaṃ carati, pūretīti attho. Dukkhakkhayāya paṭipannoti sīlaṃ ādiṃ katvā jarāmaraṇadukkhassa nirodhatthāya paṭipanno. Saṅkhāranirodhāyāti saṅkhāradukkhassa nirodhatthāya. Ettāvatā yāva arahattā desanā kathitā.
Idāni arahattaphalapaccavekkhaṇaṃ satatavihārañca dassetvā desanā nivattetabbā siyā, tathā akatvā avijjāgatoti idaṃ kasmā gaṇhātīti? Khīṇāsavassa samatikkantavaṭṭadukkhadassanatthaṃ .
Apica puna vaṭṭaṃ ārabhitvā vivaṭṭe kathiyamāne bujjhanakasatto cettha
atthi, tassa ajjhāsayavasenāpi idaṃ gaṇhātīti veditabbo. Tattha avijjāgatoti avijjāya gato upagato samannāgato. Purisapuggaloti
purisoyeva puggalo. Ubhayenāpi sammutikathaṃ katheti. Buddhānañhi
sammutikathā paramatthakathāti dve kathā honti. Tattha ‘‘satto naro
puriso puggalo tisso nāgo’’ti evaṃ pavattā sammutikathā nāma. ‘‘Khandhā
dhātuyo āyatanānī’’ti evaṃ pavattā paramatthakathā nāma. Paramatthaṃ
kathentāpi sammutiṃ amuñcitvā kathenti. Te sammutiṃ kathentāpi
paramatthaṃ kathentāpi saccameva kathenti. Teneva vuttaṃ –
‘‘Duve saccāni akkhāsi, sambuddho vadataṃ varo;
Sammutiṃ paramatthañca, tatiyaṃ nūpalabbhati;
Saṅketavacanaṃ saccaṃ, lokasammutikāraṇaṃ;
Paramatthavacanaṃ saccaṃ, dhammānaṃ bhūtalakkhaṇa’’nti.
Puññaṃce saṅkhāranti terasacetanābhedaṃ puññābhisaṅkhāraṃ. Abhisaṅkharotīti karoti. Puññūpagaṃ hoti viññāṇanti kammaviññāṇaṃ kammapuññena upagataṃ sampayuttaṃ hoti, vipākaviññāṇaṃ vipākapuññena. Apuññaṃ ce saṅkhāranti dvādasacetanābhedaṃ apuññābhisaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti. Āneñjaṃ ce saṅkhāranti catucetanābhedaṃ āneñjābhisaṅkhāraṃ. Āneñjūpagaṃ hoti viññāṇanti
kammāneñjena kammaviññāṇaṃ, vipākāneñjena vipākaviññāṇaṃ upagataṃ hoti.
Ettha ca tividhassa kammābhisaṅkhārassa gahitattā dvādasapadiko
paccayākāro gahitova hoti. Ettāvatā vaṭṭaṃ dassitaṃ.
Idāni vivaṭṭaṃ dassento yato kho, bhikkhavetiādimāha. Tattha avijjāti catūsu saccesu aññāṇaṃ. Vijjāti
arahattamaggañāṇaṃ. Ettha ca paṭhamameva avijjāya pahīnāya vijjā
uppajjati. Yathā pana caturaṅgepi tame rattiṃ padīpujjalena andhakāro
pahīyati, evaṃ vijjuppādā avijjāya pahānaṃ veditabbaṃ. Na kiñci loke upādiyatīti loke kiñci dhammaṃ na gaṇhāti na parāmasati. Anupādiyaṃ na paritassatīti anupādiyanto agaṇhanto neva taṇhāparitassanāya, na bhayaparitassanāya paritassati, na taṇhāyati na bhāyatīti attho. Paccattaññevāti sayameva attanāva parinibbāyati, na aññassa ānubhāvena.
Sosukhaṃ ce vedananti idaṃ kasmā ārabhi? Khīṇāsavassa paccavekkhaṇañāṇaṃ dassetvā satatavihāraṃ dassetuṃ ārabhi. Anajjhositāti
taṇhāya gilitvā pariniṭṭhapetvā agahitā. Atha dukkhavedanā kasmā vuttā,
kiṃ tampi abhinandanto atthīti? Āma atthi. Sukhaṃ abhinandantoyeva hi
dukkhaṃ abhinandati nāma dukkhaṃ patvā sukhaṃ patthanato sukhassa ca
vipariṇāmadukkhatoti. Kāyapariyantikanti kāyaparicchinnaṃ, yāva pañcadvārakāyo pavattati, tāva pavattaṃ pañcadvārikavedananti attho. Jīvitapariyantikanti jīvitaparicchinnaṃ . Yāva jīvitaṃ pavattati, tāva pavattaṃ manodvārikavedananti attho.
Tattha pañcadvārikavedanā pacchā uppajjitvā paṭhamaṃ
nirujjhati, manodvārikavedanā paṭhamaṃ uppajjitvā pacchā nirujjhati. Sā
hi paṭisandhikkhaṇe vatthurūpasmiṃyeva patiṭṭhāti. Pañcadvārikā pavatte
pañcadvāravasena pavattamānā paṭhamavaye vīsativassakāle
rajjanadussanamuyhanavasena adhimattā balavatī hoti, paṇṇāsavassakāle
ṭhitā hoti, saṭṭhivassakālato paṭṭhāya parihāyamānā asītinavutivassakāle
mandā hoti. Tadā hi sattā ‘‘cirarattaṃ ekato nisīdimhā nipajjimhā’’ti
vadantepi ‘‘na sañjānāmā’’ti vadanti. Adhimattānipi rūpādiārammaṇāni
‘‘na passāma na suṇāma’’, ‘‘sugandhaṃ duggandhaṃ vā sāduṃ asāduṃ vā
thaddhaṃ mudukanti vā na jānāmā’’ti vadanti. Iti nesaṃ
pañcadvārikavedanā bhaggā hoti, manodvārikāva pavattati. Sāpi anupubbena
parihāyamānā maraṇasamaye hadayakoṭiṃyeva nissāya pavattati. Yāva
panesā pavattati, tāva satto jīvatīti vuccati. Yadā nappavattati, tadā
mato niruddhoti vuccati.
Svāyamattho vāpiyā dīpetabbo –
Yathā hi puriso pañcaudakamaggasampannaṃ vāpiṃ
kareyya, paṭhamaṃ deve vuṭṭhe pañcahi udakamaggehi udakaṃ pavisitvā
antovāpiyaṃ āvāṭe pūreyya, punappunaṃ deve vassante udakamagge pūretvā
gāvutaḍḍhayojanamattaṃ ottharitvā udakaṃ tiṭṭheyya tato tato
vissandamānaṃ, atha niddhamanatumbe vivaritvā khettesu kamme kariyamāne
udakaṃ nikkhamantaṃ, sassapākakāle (udakaṃ nikkhamantaṃ,) udakaṃ
parihīnaṃ ‘‘macche gaṇhāmā’’ti vattabbataṃ āpajjeyya, tato katipāhena āvāṭesuyeva udakaṃ saṇṭhaheyya. Yāva pana taṃ āvāṭesu hoti, tāva ‘‘mahāvāpiyaṃ
udakaṃ atthī’’ti saṅkhaṃ gacchati. Yadā pana tattha chijjati, tadā
‘‘vāpiyaṃ udakaṃ natthī’’ti vuccati, evaṃsampadamidaṃ veditabbaṃ.
Paṭhamaṃ deve vassante
pañcahi maggehi udake pavisante āvāṭānaṃ pūraṇakālo viya hi paṭhamameva
paṭisandhikkhaṇe manodvārikavedanāya vatthurūpe patiṭṭhitakālo,
punappunaṃ deve vassante pañcannaṃ maggānaṃ pūritakālo viya pavatte
pañcadvārikavedanāya pavattikālo, gāvutaḍḍhayojanamattaṃ ajjhottharaṇaṃ
viya paṭhamavaye vīsativassakāle rajjanādivasena tassā
adhimattabalavabhāvo, yāva vāpito udakaṃ na niggacchati, tāva pūrāya
vāpiyā ṭhitakālo viya paññāsavassakāle tassā ṭhitakālo,
niddhamanatumbesu vivaṭesu kammante kariyamāne udakassa nikkhamanakālo
viya saṭṭhivassakālato paṭṭhāya tassā parihāni, udake bhaṭṭhe
udakamaggesu parittodakassa ṭhitakālo viya asītinavutivassakāle
pañcadvārikavedanāya mandakālo, āvāṭesuyeva udakassa patiṭṭhānakālo viya
hadayavatthukoṭiṃ nissāya manodvārikavedanāya pavattikālo, āvāṭesu
parittepi udake sati ‘‘vāpiyaṃ udakaṃ atthī’’ti vattabbakālo viya yāva
sā pavattati, tāva ‘‘satto jīvatī’’ti vuccati. Yathā pana āvāṭesu udake
chinne ‘‘natthi vāpiyaṃ udaka’’nti vuccati, evaṃ manodvārikavedanāya
appavattamānāya ‘‘satto mato’’ti vuccati. Imaṃ vedanaṃ sandhāya vuttaṃ
‘‘jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vediyamāno’’ti.
Kāyassa bhedāti kāyassa bhedena. Jīvitapariyādānā uddhanti jīvitakkhayato uddhaṃ. Idhevāti paṭisandhivasena parato agantvā idheva. Sītībhavissantīti pavattivipphandadaratharahitāni sītāni appavattanadhammāni bhavissanti. Sarīrānīti dhātusarīrāni. Avasissantīti avasiṭṭhāni bhavissanti.
Kumbhakārapākāti kumbhakārassa bhājanapacanaṭṭhānato. Paṭisisseyyāti ṭhapeyya. Kapallānīti saha mukhavaṭṭiyā ekābaddhāni kumbhakapallāni. Avasisseyyunti tiṭṭheyyuṃ. Evameva khoti
ettha idaṃ opammasaṃsandanaṃ – ādittakumbhakārapāko viya hi tayo bhavā
daṭṭhabbā, kumbhakāro viya yogāvacaro, pākato kumbhakārabhājanānaṃ
nīharaṇadaṇḍako viya arahattamaggañāṇaṃ, samo bhūmibhāgo viya asaṅkhataṃ
nibbānatalaṃ, daṇḍakena uṇhakumbhaṃ ākaḍḍhitvā
same bhūmibhāge kumbhassa ṭhapitakālo viya āraddhavipassakassa
rūpasattakaṃ arūpasattakaṃ vipassantassa kammaṭṭhāne ca paguṇe vibhūte
upaṭṭhahamāne tathārūpaṃ utusappāyādiṃ labhitvā ekāsane nisinnassa
vipassanaṃ vaḍḍhetvā aggaphalaṃ arahattaṃ patvā catūhi apāyehi
attabhāvaṃ uddharitvā phalasamāpattivasena asaṅkhate nibbānatale
ṭhitakālo daṭṭhabbo. Khīṇāsavo pana uṇhakumbho viya
arahattappattadivaseyeva na parinibbāti, sāsanappaveṇiṃ pana ghaṭayamāno
paṇṇāsasaṭṭhivassāni ṭhatvā carimakacittappattiyā
upādiṇṇakakkhandhabhedā anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāti.
Athassa kumbhassa viya kapallāni anupādiṇṇakasarīrāneva avasissantīti. Sarīrāni avasissantīti pajānātīti idaṃ pana khīṇāsavassa anuyogāropanatthaṃ vuttaṃ.
Viññāṇaṃ paññāyethāti paṭisandhiviññāṇaṃ paññāyetha. Sādhu sādhūti therānaṃ byākaraṇaṃ sampahaṃsati. Evametanti yadetaṃ tividhe abhisaṅkhāre asati paṭisandhiviññāṇassa appaññāṇantiādi, evameva etaṃ. Adhimuccathāti sanniṭṭhānasaṅkhātaṃ adhimokkhaṃ paṭilabhatha. Esevanto dukkhassāti ayameva vaṭṭadukkhassa anto ayaṃ paricchedo, yadidaṃ nibbānanti. Paṭhamaṃ.
No comments:
Post a Comment