Thứ Ba, ngày 14 tháng 10 năm 2014
Tập I - Chương X. TƯƠNG ƯNG DẠ XOA -
Bài 7-Punabbasu (S.i, 209)
Bài 7-Punabbasu (S.i, 209)
Bài giảng:
https://www.youtube.com/watch?v=hX-NNsvsh3k
http://www.mediafire.com/listen/se7xxnm4fs3euu3/141014_T1_ChX-DaXoa-Bai_7-12.mp3
Chánh văn tiếng Việt:
https://www.youtube.com/watch?v=hX-NNsvsh3k
http://www.mediafire.com/listen/se7xxnm4fs3euu3/141014_T1_ChX-DaXoa-Bai_7-12.mp3
Chánh văn tiếng Việt:
VII. Punabbasu (S.i,209)
1) Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi,
Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika.
2) Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang thuyết pháp cho
chúng Tỷ-kheo về vấn đề liên hệ đến Niết-bàn, tuyên thuyết, khích lệ, làm cho
phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Và các Tỷ-kheo ấy chú tâm, chú ý, tập trung mọi tâm
tư, lóng tai nghe pháp.
3) Rồi một nữ Dạ-xoa, mẹ Punabbasu dỗ con
nín như sau:
Hãy gìn giữ im lặng,
Này Uttarika!
Hãy gìn giữ im lặng,
Này Punabbasu!
Ðể mẹ được nghe pháp.
Ðạo Sư, tối thượng Phật,
Thế Tôn giảng Niết-bàn,
Thoát ly mọi triền phược,
Mẹ đối với pháp ấy,
Thật cực kỳ ái lạc.
Ðời ái lạc con mình,
Ðời ái lạc chồng mình,
Nhưng đối với đạo pháp,
Mẹ ái lạc nhiều hơn.
Con hay chồng dầu thân,
Không cứu ta thoát khổ,
Không như nghe diệu pháp,
Chúng sanh được thoát khổ.
Trong đau khổ đời sau,
Dính liền già và chết,
Chánh pháp Ngài giác ngộ,
Giải thoát khỏi già chết.
Mẹ muốn nghe pháp ấy
Hãy nín đi con ơi!
Này Punabbasu.
4) (Punabbasu):
Thưa mẹ, con không nói,
Uttarà nín lặng.
Mẹ hãy lắng nghe pháp,
Nghe pháp được an lạc.
Vì không biết diệu pháp,
Chúng ta trôi sanh tử.
Giữa Nhân, Thiên mù quáng,
Ngài đem cho ánh sáng,
Giác ngộ, thân tối hậu,
Bậc Pháp nhãn thuyết pháp.
5) (Bà mẹ):
Hữu trí thay, con ta!
Con ta sanh ẵm ngực.
Nay con ta ái lạc,
Tịnh pháp Vô thượng Phật.
Này Punabbasu!
Hãy sống chơn an lạc,
Nay ta được sống lại,
Thấy được chơn Thánh đế,
Này con Uttara!
Hãy nghe theo lời ta.
Chánh văn Pāḷi
7. Punabbasusuttaṃ
241. Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena
kho pana samayena bhagavā bhikkhū nibbānapaṭisaṃyuttāya dhammiyā
kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti. Te ca bhikkhū
aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti. Atha kho punabbasumātā yakkhinī puttake evaṃ tosesi–
‘‘Tuṇhī uttarike hohi, tuṇhī hohi punabbasu;
Yāvāhaṃ buddhaseṭṭhassa, dhammaṃ sossāmi satthuno.
‘‘Nibbānaṃ bhagavā āha, sabbaganthappamocanaṃ;
Ativelā ca me hoti, asmiṃ dhamme piyāyanā.
‘‘Piyo loke sako putto, piyo loke sako pati;
Tato piyatarā mayhaṃ, assa dhammassa magganā.
‘‘Na hi putto pati vāpi, piyo dukkhā pamocaye;
Yathā saddhammassavanaṃ, dukkhā moceti pāṇinaṃ.
‘‘Loke dukkhaparetasmiṃ, jarāmaraṇasaṃyute;
Jarāmaraṇamokkhāya, yaṃ dhammaṃ abhisambudhaṃ;
Taṃ dhammaṃ sotumicchāmi, tuṇhī hohi punabbasū’’ti.
‘‘Ammā na byāharissāmi, tuṇhībhūtāyamuttarā;
Dhammameva nisāmehi, saddhammassavanaṃ sukhaṃ;
Saddhammassa anaññāya, ammā dukkhaṃ carāmase.
Buddho antimasārīro, dhammaṃ deseti cakkhumā’’ti.
‘‘Sādhu kho paṇḍito nāma, putto jāto uresayo;
Putto me buddhaseṭṭhassa, dhammaṃ suddhaṃ piyāyati.
Diṭṭhāni ariyasaccāni, uttarāpi suṇātu me’’ti.
Chú giải Pāḷi
7. Punabbasusuttavaṇṇanā
241. Sattame tena kho pana samayenāti
katarasamayena? Sūriyassa atthaṅgamanasamayena. Tadā kira bhagavā
pacchābhatte mahājanassa dhammaṃ desetvā mahājanaṃ uyyojetvā
nhānakoṭṭhake nhatvā gandhakuṭipariveṇe paññattavarabuddhāsane
puratthimalokadhātuṃ olokayamāno nisīdi. Athekacārikadvicārikādayo
paṃsukūlikapiṇḍapātikabhikkhū attano attano
vasanaṭṭhānehi nikkhamitvā āgamma dasabalaṃ vanditvā rattasāṇiyā
parikkhipamānā viya nisīdiṃsu. Atha nesaṃ ajjhāsayaṃ viditvā satthā
nibbānapaṭisaṃyuttaṃ dhammakathaṃ kathesi.
Evaṃ tosesīti sā kira dhītaraṃ aṅkenādāya puttaṃ aṅguliyā gahetvā jetavanapiṭṭhiyaṃ pākāraparikkhepasamīpe uccārapassāvakheḷasiṅghāṇikaṃ pariyesamānā anupubbena jetavanadvārakoṭṭhakaṃ sampattā. Bhagavato ca, ‘‘ānanda, pattaṃ āhara, cīvaraṃ āhara, vighāsādānaṃ dānaṃ dehī’’ti kathentassa saddo samantā dvādasahatthamattameva gaṇhāti. Dhammaṃ desentassa sacepi cakkavāḷapariyantaṃ katvā parisā nisīdati, yathā parisaṃ gacchati, bahiparisāya ekaṅgulimattampi na niggacchati, ‘‘mā akāraṇā madhurasaddo nassī’’ti. Tatrāyaṃ yakkhinī bahiparisāya ṭhitā saddaṃ na suṇāti, dvārakoṭṭhake ṭhitāya panassā mahatiyā buddhavīthiyā abhimukhe ṭhitā gandhakuṭi paññāyi. Sā nivāte dīpasikhā viya buddhagāravena hatthakukkuccādirahitaṃ niccalaṃ parisaṃ disvā – ‘‘nūna mettha kiñci bhājanīyabhaṇḍaṃ bhavissati, yato ahaṃ sappitelamadhuphāṇitādīsu kiñcideva pattato vā hatthato vā paggharantaṃ bhūmiyaṃ vā pana patitaṃ labhissāmī’’ti antovihāraṃ pāvisi. Dvārakoṭṭhake avaruddhakānaṃ nivāraṇatthāya ṭhitā ārakkhadevatā yakkhiniyā upanissayaṃ disvā na nivāresi. Tassā saha parisāya ekībhāvagamanena madhurassaro chaviādīni chinditvā aṭṭhimiñjaṃ āhacca aṭṭhāsi. Taṃ dhammassavanatthāya niccalaṃ ṭhitaṃ purimanayeneva puttakā codayiṃsu. Sā ‘‘dhammassavanassa me antarāyaṃ karontī’’ti puttake tuṇhī uttarike hohīti evaṃ tosesi.
Tattha yāvāti yāva dhammaṃ suṇāmi, tāva tuṇhī hohīti attho. Sabbaganthappamocananti nibbānaṃ āgamma sabbe ganthā pamuccanti, tasmā taṃ sabbaganthappamocananti vuccati. Ativelāti velātikkantā pamāṇātikkantā. Piyāyanāti magganā patthanā. Tato piyataranti yā ayaṃ assa dhammassa magganā patthanā, idaṃ mayhaṃ tato piyataranti attho. Piyatarāti vā pāṭho. Pāṇinanti yathā pāṇīnaṃ dukkhā moceti. Ke mocetīti? Pāṇineti āharitvā vattabbaṃ. Yaṃ dhammaṃ abhisambuddhanti, yaṃ dhammaṃ bhagavā abhisambuddho. Tuṇhībhūtāyamuttarāti na kevalaṃ ahameva, ayaṃ me bhaginī uttarāpi tuṇhībhūtāti vadati. Saddhammassa anaññāyāti, amma, mayaṃ pubbepi imaṃ saddhammameva ajānitvā idāni idaṃ khuppipāsādidukkhaṃ anubhavantā dukkhaṃ carāma viharāma.
Cakkhumāti pañcahi cakkhūhi
cakkhumā. Dhammaṃ desentoyeva bhagavā parisaṃ sallakkhayamāno tassā
yakkhiniyā ceva yakkhadārakassa ca sotāpattiphalassa upanissayaṃ disvā
desanaṃ vinivaṭṭetvā catusaccakathaṃ dīpeti, taṃ sutvā tasmiṃyeva dese
ṭhitā yakkhinī saddhiṃ puttena sotāpattiphale patiṭṭhitā. Dhītuyāpi panassā upanissayo atthi, atidaharattā pana desanaṃ sampaṭicchituṃ nāsakkhi.
Idāni sā yakkhinī puttassa anumodanaṃ karontī sādhu kho paṇḍito nāmātiādimāha. Ajjāhamhi samuggatāti ahamhi ajja vaṭṭato uggatā samuggatā sāsane vā uggatā samuggatā, tvampi sukhī hohīti. Diṭṭhānīti mayā ca tayā ca diṭṭhāni. Uttarāpi suṇātu meti,
‘‘amhākaṃ catusaccapaṭivedhabhāvaṃ, dhītā me uttarāpi, suṇātū’’ti
vadati. Saha saccapaṭivedheneva sāpi sūcilomo viya sabbaṃ
setakaṇḍukacchuādibhāvaṃ pahāya dibbasampattiṃ paṭilabhati saddhiṃ
puttena. Dhītā panassā yathā nāma loke mātāpitūhi issariye laddhe
puttānampi taṃ hoti, evaṃ mātu-ānubhāveneva sampattiṃ labhi. Tato
paṭṭhāya ca sā saddhiṃ puttakehi gandhakuṭisamīparukkheyeva
nivāsarukkhaṃ labhitvā sāyaṃ pātaṃ buddhadassanaṃ labhamānā dhammaṃ
suṇamānā dīgharattaṃ tattheva vasi. Sattamaṃ.
Tập I - Chương X. TƯƠNG ƯNG DẠ XOA -
Bài 8-Sudatta (S.i, 201)
Chánh văn tiếng Việt:
VIII. Sudatta. (S.i,210)
1) Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá),
tại rừng Sìta.
2) Lúc bấy giờ cư sĩ Anàthapindika (Cấp Cô
Ðộc) đã đến Ràjagaha để làm một vài công việc.
3) Cư sĩ Anàthapindika được nghe đức Phật đã
ra đời và muốn đến yết kiến Thế Tôn.
4) Rồi cư sĩ Anàthapindika suy nghĩ: "Nay
không phải thời để yết kiến Thế Tôn. Ngày mai mới phải thời ta đến yết kiến Thế
Tôn". Như vậy với ý nghĩ đi yết kiến đức Phật, ông Anàthapindika nằm ngủ. Trong
đêm, ông ấy thức dậy ba lần, tưởng rằng trời đã sáng.
5) Rồi cư sĩ Anàthapindika đi đến cửa
Sìvatthika (nghĩa địa), và có những phi nhân mở cửa.
6) Và khi ông ra khỏi thành phố, ánh sáng
biến mất và bóng tối hiện ra. Ông sợ hãi, hoảng hốt, lông tóc dựng ngược và muốn
đi trở về.
7) Rồi Dạ-xoa Sìvaka ẩn hình, lên tiếng như
sau:
Trăm voi và trăm ngựa,
Trăm xe do ngựa kéo,
Cả trăm ngàn thiếu nữ,
Ðược trang sức bông tai,
Không bằng phần mười sáu,
Một bước đi tới này.
Cư sĩ, hãy tiến tới!
Cư sĩ, hãy tiến tới!
Tiến tới, tốt đẹp hơn,
Chớ có lui, thối bước!
8) Rồi với Anàthapindika, tối tăm biến mất,
ánh sáng hiện ra. Và sợ hãi, hốt hoảng, lông tóc dựng ngược đã khởi lên được dịu
hẳn xuống.
9) Lần thứ hai... (như trên)...
10) Lần thứ ba, với Anàthapindika, ánh sáng
biến mất, bóng tối hiện ra. Và sợ hãi, hoảng hốt, lông tóc dựng ngược khởi lên.
Và Anàthapindika muốn trở lui. Lần thứ ba, Dạ-xoa Sìvaka ẩn hình lên tiếng như
sau :
Trăm voi và trăm ngựa,
Trăm xe do ngựa kéo,
Cả trăm ngàn thiếu nữ,
Ðược trang sức bông tai,
Không bằng phần mười sáu,
Một bước đi tới này.
Cư sĩ, hãy tiến tới!
Cư sĩ, hãy tiến tới!
Tiến tới, tốt đẹp hơn,
Chớ có lui, thối bước!
11) Rồi với Anàthapindika, bóng tối biến
mất, ánh sáng hiện ra và sợ hãi, hoảng hốt, lông tóc dựng ngược đã khởi lên được
dịu bớt.
12) Rồi Anàthapindika đi đến rừng Sìta, đi
đến Thế Tôn.
13) Lúc bấy giờ Thế Tôn thức dậy vào lúc đêm
vừa mãn và đang đi kinh hành ngoài trời.
14) Thế Tôn thấy Anàthapindika từ xa đi đến,
khi thấy vậy, từ chỗ kinh hành đi xuống, và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi
ngồi, Thế Tôn nói với cư sĩ Anàthapindika: -- Hãy đến đây, Sudatta!
15) Rồi cư sĩ Anàthapindika nghĩ: "Thế Tôn
kêu tên ta", rồi cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn: -- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn ngủ có an lạc
chăng?
(Thế Tôn):
Bà-la-môn tịch tịnh,
Luôn luôn sống an lạc,
Không đèo bồng dục vọng,
Thanh lương, không sanh y,
Mọi ái trước đoạn diệt,
Tâm khổ não điều phục,
Tịch tịnh, sống an lạc,
Tâm tư đạt hòa bình.
Chánh văn Pāḷi
8. Sudattasuttaṃ
242. Ekaṃ
samayaṃ bhagavā rājagahe viharati sītavane. Tena kho pana samayena
anāthapiṇḍiko gahapati rājagahaṃ anuppatto hoti kenacideva karaṇīyena.
Assosi kho anāthapiṇḍiko gahapati – ‘‘buddho kira loke uppanno’’ti.
Tāvadeva ca pana bhagavantaṃ dassanāya upasaṅkamitukāmo hoti. Athassa
anāthapiṇḍikassa gahapatissa etadahosi – ‘‘akālo kho ajja bhagavantaṃ
dassanāya upasaṅkamituṃ. Sve dānāhaṃ kālena bhagavantaṃ dassanāya
gamissāmī’’ti buddhagatāya satiyā nipajji. Rattiyā sudaṃ tikkhattuṃ
vuṭṭhāsi pabhātanti maññamāno. Atha kho anāthapiṇḍiko gahapati yena
sivathikadvāraṃ [sīvathikadvāraṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)]
tenupasaṅkami. Amanussā dvāraṃ vivariṃsu. Atha kho anāthapiṇḍikassa
gahapatissa nagaramhā nikkhamantassa āloko antaradhāyi, andhakāro
pāturahosi, bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃso udapādi, tatova puna
nivattitukāmo ahosi. Atha kho sivako [sīvako (sī. pī.)] yakkho antarahito saddamanussāvesi–
‘‘Sataṃ hatthī sataṃ assā, sataṃ assatarīrathā;
Sataṃ kaññāsahassāni, āmukkamaṇikuṇḍalā;
Ekassa padavītihārassa, kalaṃ nāgghanti soḷasiṃ.
Abhikkamanaṃ te seyyo, no paṭikkamana’’nti.
Atha kho anāthapiṇḍikassa
gahapatissa andhakāro antaradhāyi, āloko pāturahosi, yaṃ ahosi bhayaṃ
chambhitattaṃ lomahaṃso, so paṭippassambhi. Dutiyampi kho
anāthapiṇḍikassa gahapatissa āloko antaradhāyi, andhakāro pāturahosi,
bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃso udapādi, tatova puna nivattitukāmo ahosi.
Dutiyampi kho sivako yakkho antarahito saddamanussāvesi –
Kalaṃ nāgghanti soḷasiṃ.
‘‘Abhikkama gahapati, abhikkama gahapati;
Abhikkamanaṃ te seyyo, no paṭikkamana’’nti.
Atha kho anāthapiṇḍikassa gahapatissa andhakāro antaradhāyi ,
āloko pāturahosi, yaṃ ahosi bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃso, so
paṭippassambhi. Tatiyampi kho anāthapiṇḍikassa gahapatissa āloko
antaradhāyi, andhakāro pāturahosi, bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃso
udapādi, tatova puna nivattitukāmo ahosi. Tatiyampi kho sivako yakkho
antarahito saddamanussāvesi –
‘‘Sataṃ hatthī sataṃ assā…pe…
Kalaṃ nāgghanti soḷasiṃ.
‘‘Abhikkama gahapati, abhikkama gahapati;
Abhikkamanaṃ te seyyo, no paṭikkamana’’nti.
Atha kho anāthapiṇḍikassa gahapatissa andhakāro antaradhāyi, āloko pāturahosi, yaṃ
ahosi bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃso, so paṭippassambhi. Atha kho
anāthapiṇḍiko gahapati yena sītavanaṃ yena bhagavā tenupasaṅkami.
Tena kho pana samayena bhagavā rattiyā
paccūsasamayaṃ paccuṭṭhāya abbhokāse caṅkamati. Addasā kho bhagavā
anāthapiṇḍikaṃ gahapatiṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna caṅkamā orohitvā
paññatte āsane nisīdi. Nisajja kho bhagavā anāthapiṇḍikaṃ gahapatiṃ
etadavoca – ‘‘ehi sudattā’’ti. Atha kho anāthapiṇḍiko gahapati, nāmena
maṃ bhagavā ālapatīti, haṭṭho udaggo tattheva bhagavato pādesu sirasā
nipatitvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kacci, bhante, bhagavā
sukhamasayitthā’’ti?
‘‘Sabbadā ve sukhaṃ seti, brāhmaṇo parinibbuto;
Yo na limpati kāmesu, sītibhūto nirūpadhi.
‘‘Sabbā āsattiyo chetvā, vineyya hadaye daraṃ;
Upasanto sukhaṃ seti, santiṃ pappuyya cetasā’’ti [cetasoti (sī.)].
Chú giải Pāḷi
8. Sudattasuttavaṇṇanā
242. Aṭṭhame kenacideva karaṇīyenāti
vāṇijjakammaṃ adhippetaṃ. Anāthapiṇḍiko ca rājagahaseṭṭhi ca aññamaññaṃ
bhaginipatikā honti. Yadā rājagahe uṭṭhānakabhaṇḍakaṃ mahagghaṃ hoti,
tadā rājagahaseṭṭhi taṃ gahetvā pañcasakaṭasatehi sāvatthiṃ gantvā yojanamatte ṭhito attano
āgatabhāvaṃ jānāpeti. Anāthapiṇḍiko paccuggantvā tassa mahāsakkāraṃ
katvā ekayānaṃ āropetvā sāvatthiṃ pavisati. So sace bhaṇḍaṃ lahukaṃ
vikkīyati, vikkiṇāti. No ce, bhaginighare ṭhapetvā pakkamati.
Anāthapiṇḍikopi tatheva karoti. Svāyaṃ tadāpi teneva karaṇīyena agamāsi.
Taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
Taṃ divasaṃ pana rājagahaseṭṭhi yojanamatte ṭhitena
anāthapiṇḍikena āgatabhāvajānanatthaṃ pesitaṃ paṇṇaṃ na suṇi,
dhammassavanatthāya vihāraṃ agamāsi. So dhammakathaṃ sutvā svātanāya
buddhappamukhaṃ bhikkhusaṅghaṃ nimantetvā attano ghare
uddhanakhaṇāpanadāruphālanādīni kāresi. Anāthapiṇḍikopi ‘‘idāni mayhaṃ
paccuggamanaṃ karissati, idāni karissatī’’ti gharadvārepi paccuggamanaṃ
alabhitvā antogharaṃ paviṭṭho paṭisanthārampi na
bahuṃ alattha. ‘‘Kiṃ, mahāseṭṭhi, kusalaṃ dārakarūpānaṃ? Nasi magge
kilanto’’ti? Ettakova paṭisanthāro ahosi. So tassa mahābyāpāraṃ disvā,
‘‘kiṃ nu te, gahapati, āvāho vā bhavissatī’’ti? Khandhake (cūḷava. 304)
āgatanayeneva kathaṃ pavattetvā tassa mukhato buddhasaddaṃ sutvā
pañcavaṇṇaṃ pītiṃ paṭilabhi. Sā tassa sīsena uṭṭhāya yāva pādapiṭṭhiyā,
pādapiṭṭhiyā uṭṭhāya yāva sīsā gacchati, ubhato uṭṭhāya majjhe osarati,
majjhe uṭṭhāya ubhato gacchati. So pītiyā nirantaraṃ phuṭṭho, ‘‘buddhoti
tvaṃ, gahapati, vadesi? Buddho tāhaṃ, gahapati, vadāmī’’ti evaṃ
tikkhattuṃ pucchitvā, ‘‘ghosopi kho eso dullabho lokasmiṃ yadidaṃ
buddho’’ti āha. Idaṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘assosi kho anāthapiṇḍiko,
gahapati, buddho kira loke uppanno’’ti.
Etadahosi akālo kho ajjāti so kira taṃ seṭṭhiṃ pucchi, ‘‘kuhiṃ gahapati satthā viharatī’’ti? Athassa so – ‘‘buddhā
nāma durāsadā āsīvisasadisā honti, satthā sivathikāya vasati, na sakkā
tattha tumhādisehi imāya velāya gantu’’nti ācikkhi. Athassa etadahosi. Buddhagatāya satiyā nipajjīti
taṃdivasaṃ kirassa bhaṇḍasakaṭesu vā upaṭṭhākesu vā cittampi na
uppajji, sāyamāsampi na akāsi, sattabhūmikaṃ pana pāsādaṃ āruyha
supaññattālaṅkatavarasayane ‘‘buddho buddho’’ti sajjhāyaṃ karontova
nipajjitvā niddaṃ okkami. Tena vuttaṃ ‘‘buddhagatāya satiyā nipajjī’’ti.
Rattiyā sudaṃ tikkhattuṃ uṭṭhāsi pabhātanti maññamānoti paṭhamayāme tāva vītivatte uṭṭhāya buddhaṃ
anussari, athassa balavappasādo udapādi, pītiāloko ahosi, sabbatamaṃ
vigacchi, dīpasahassujjalaṃ viya canduṭṭhānaṃ sūriyuṭṭhānaṃ viya ca
jātaṃ. So ‘‘papādaṃ āpanno vatamhi, sūriyo uggato’’ti uṭṭhāya ākāsatale
ṭhitaṃ candaṃ ulloketvā ‘‘ekova yāmo gato, aññe dve atthī’’ti puna
pavisitvā nipajji. Etenupāyena majjhimayāmāvasānepi
pacchimayāmāvasānepīti tikkhattuṃ uṭṭhāsi. Pacchimayāmāvasāne pana
balavapaccūseyeva uṭṭhāya ākāsatalaṃ āgantvā mahādvārābhimukhova ahosi, sattabhūmikadvāraṃ sayameva vivaṭaṃ ahosi. So pāsādā oruyha antaravīthiṃ paṭipajji.
Vivariṃsūti ‘‘ayaṃ
mahāseṭṭhi ‘buddhupaṭṭhānaṃ gamissāmī’ti nikkhanto, paṭhamadassaneneva
sotāpattiphale patiṭṭhāya tiṇṇaṃ ratanānaṃ aggupaṭṭhāko hutvā asadisaṃ
saṅghārāmaṃ katvā cātuddisassa ariyagaṇassa anāvaṭadvāro bhavissati, na
yuttamassa dvāraṃ pidahitu’’nti cintetvā vivariṃsu. Antaradhāyīti
rājagahaṃ kira ākiṇṇamanussaṃ antonagare nava koṭiyo, bahinagare navāti
taṃ upanissāya aṭṭhārasa manussakoṭiyo vasanti. Avelāya matamanusse
bahi nīharituṃ asakkontā aṭṭālake ṭhatvā bahidvāre khipanti. Mahāseṭṭhi
nagarato bahinikkhantamattova allasarīraṃ pādena akkami, aparampi
piṭṭhipādena pahari. Makkhikā uppatitvā parikiriṃsu. Duggandho nāsapuṭaṃ
abhihani. Buddhappasādo tanuttaṃ gato. Tenassa āloko antaradhāyi, andhakāro pāturahosi. Saddamanussāvesīti ‘‘seṭṭhissa ussāhaṃ janessāmī’’ti suvaṇṇakiṅkiṇikaṃ ghaṭṭento viya madhurassarena saddaṃ anussāvesi.
Sataṃ kaññāsahassānīti
purimapadānipi imināva sahassapadena saddhiṃ sambandhanīyāni. Yatheva hi
sataṃ kaññāsahassāni, sataṃ sahassāni hatthī, sataṃ sahassāni assā,
sataṃ sahassāni rathāti ayamettha attho. Iti ekekasatasahassameva
dīpitaṃ. Padavītihārassāti padavītihāro nāma samagamane dvinnaṃ padānaṃ antare muṭṭhiratanamattaṃ. Kalaṃ nāgghanti soḷasinti
taṃ ekaṃ padavītihāraṃ soḷasabhāge katvā tato eko koṭṭhāso puna
soḷasadhā, tato eko soḷasadhāti evaṃ soḷasa vāre soḷasadhā bhinnassa eko
koṭṭhāso soḷasikalā nāma, taṃ soḷasikalaṃ etāni cattāri satasahassāni
na agghanti. Idaṃ vuttaṃ hoti – sataṃ hatthisahassāni sataṃ
assasahassāni sataṃ rathasahassāni sataṃ kaññāsahassāni, tā ca kho
āmukkamaṇikuṇḍalā sakalajambudīparājadhītaro vāti imasmā ettakā lābhā
vihāraṃ gacchantassa tasmiṃ soḷasikalasaṅkhāte
padese pavattacetanāva uttaritarāti. Idaṃ pana vihāragamanaṃ kassa
vasena gahitanti? Vihāraṃ gantvā anantarāyena sotāpattiphale
patiṭṭhahantassa. ‘‘Gandhamālādīhi pūjaṃ karissāmi ,
cetiyaṃ vandissāmi, dhammaṃ sossāmi, dīpapūjaṃ karissāmi, saṅghaṃ
nimantetvā dānaṃ dassāmi, sikkhāpadesu vā saraṇesu vā
patiṭṭhahissāmī’’ti gacchatopi vasena vaṭṭatiyeva.
Andhakāro antaradhāyīti so
kira cintesi – ‘‘ahaṃ ekakoti saññaṃ karomi, anuyuttāpi me atthi, kasmā
bhāyāmī’’ti sūro ahosi. Athassa balavā buddhappasādo udapādi. Tasmā
andhakāro antaradhāyīti. Sesavāresupi eseva nayo. Apica purato purato
gacchanto bhiṃsanake susānamagge aṭṭhikasaṅkhalikasamaṃsalohitantiādīni
anekavidhāni kuṇapāni addasa . Soṇasiṅgālādīnaṃ saddaṃ assosi. Taṃ sabbaṃ parissayaṃ punappunaṃ buddhagataṃ pasādaṃ vaḍḍhetvā maddanto agamāsiyeva.
Ehi sudattāti so kira
seṭṭhi gacchamānova cintesi – ‘‘imasmiṃ loke bahū pūraṇakassapādayo
titthiyā ‘mayaṃ buddhā mayaṃ buddhā’ti vadanti, kathaṃ nu kho ahaṃ
satthu buddhabhāvaṃ jāneyya’’nti? Athassa etadahosi – ‘‘mayhaṃ
guṇavasena uppannaṃ nāmaṃ mahājano jānāti, kuladattiyaṃ pana me nāmaṃ
aññatra mayā na koci jānāti. Sace buddho bhavissati, kuladattikanāmena
maṃ ālapissatī’’ti. Satthā tassa cittaṃ ñatvā evamāha.
Parinibbutoti kilesaparinibbānena parinibbuto. Āsattiyoti taṇhāyo. Santinti kilesavūpasamaṃ. Pappuyyāti
patvā. Idañca pana vatvā satthā tassa anupubbikathaṃ kathetvā matthake
cattāri saccāni pakāsesi. Seṭṭhi dhammadesanaṃ sutvā sotāpattiphale
patiṭṭhāya buddhappamukhaṃ bhikkhusaṅghaṃ nimantetvā punadivasato
paṭṭhāya mahādānaṃ dātuṃ ārabhi. Bimbisārādayo seṭṭhissa sāsanaṃ pesenti
– ‘‘tvaṃ āgantuko, yaṃ nappahoti, taṃ ito āharāpehī’’ti. So ‘‘alaṃ
tumhe bahukiccā’’ti sabbe paṭikkhipitvā pañcahi sakaṭasatehi
ānītavibhavena sattāhaṃ mahādānaṃ adāsi. Dānapariyosāne ca bhagavantaṃ
sāvatthiyaṃ vassāvāsaṃ paṭijānāpetvā rājagahassa ca sāvatthiyā ca antare yojane yojane satasahassaṃ datvā pañcacattālīsa vihāre kārento sāvatthiṃ gantvā jetavanamahāvihāraṃ kāretvā buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa niyyādesīti. Aṭṭhamaṃ.
No comments:
Post a Comment